Các tác phẩm đoạt giải báo chí Thân Nhân Trung 2016-2020
- Cập nhật: Thứ tư, 2/8/2023 | 10:26:01 AM
Bắc Giang là vùng đất cổ, có nhiều di tích lịch sử văn hóa gắn liền với đất và người vùng Kinh Bắc. Nơi sinh ra danh nhân văn hóa Thân Nhân Trung với câu nói nổi tiếng ghi trong Văn bia ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám năm 1484 “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Từ năm 2000 đến nay, Hội Nhà báo tỉnh Bắc Giang đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập giải báo chí mang tên danh nhân văn hóa Thân Nhân Trung và quyết định xét thưởng 22 lần cho hơn 600 tác phẩm báo chí xuất sắc. Giải báo chí Thân Nhân Trung hằng năm tạo ra “sân chơi” cho các hội viên, nhà báo nhằm thi đua sáng tạo các tác phẩm báo chí chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Bắc Giang. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội Nhà báo tỉnh Bắc Giang (01/11/1972- 01/11/2022), Hội Nhà báo tỉnh Bắc Giang xuất bản cuốn sách “Các tác phẩm đoạt giải báo chí Thân Nhân Trung 2016-2020” (Từ giải A đến giải C). Do đặc điểm của tác phẩm báo chí và tính chất của cuốn sách, các tác phẩm phát thanh, truyền hình chỉ in tóm tắt nội dung phần bình luận, không có phần hình và tiếng động nên phần nào không thể hiện hết giá trị tác phẩm của loại hình này, mong các tác giả và bạn đọc thông cảm. Hội Nhà báo tỉnh Bắc Giang trân trọng giới thiệu đến bạn đọc cuốn sách “Các tác phẩm đoạt giải báo chí Thân Nhân Trung 2016-2020”. Trong quá trình biên soạn cuốn sách này, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong nhận được ý kiến đóng góp của các tác giả và bạn đọc. HỘI NHÀ BÁO TỈNH BẮC GIANG
|
CÁC TÁC PHẨM
ĐOẠT GIẢI A
THU HÚT DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ VÀO NÔNG NGHIỆP
Giải A, năm 2016
Nhóm tác giả: Công Doanh, Hùng Sơn
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: "CÓ BỘT” CHƯA "GỘT NÊN HỒ”
X |
ác định doanh nghiệp (DN) đóng vai trò then chốt góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững, những năm gần đây, tỉnh Bắc Giang luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình DN này. Tuy đạt được nhiều kết quả bước đầu nhưng sản xuất nông nghiệp của tỉnh vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Khi DN đồng hành cùng nhà nông
Bắc Giang là tỉnh trọng điểm nông nghiệp ở miền núi phía Bắc, trong đó diện tích cây ăn quả lớn nhất miền Bắc với hơn 40 nghìnha; đàn lợn xếp thứ 3 cả nước (1,2 triệu con); gia cầm xếp thứ 4 (16,5 triệu con); diện tích nuôi trồng thủy sản xếp thứ 2 trong số 14 tỉnh trung du miền núi phía Bắc với 12 nghìn ha, sản lượng 31 nghìn tấn/năm. Nhiều sản phẩm nông nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ dưới hình thức chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể như vải thiều Lục Ngạn, gà đồi Yên Thế, rau an toàn Đa Mai (TP Bắc Giang), gạo thơm Yên Dũng, na Lục Nam, lạc giống Tân Yên, bưởi Lương Phong (Hiệp Hòa)....Những năm qua, tỉnh Bắc Giang đã tập trung mọi nguồn lực để đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, trong đó huy động sự tham gia tích cực của các DN. Ở nhiều mô hình, vai trò của DN thể hiện rất rõ từ khâu cung cấp nguyên liệu đầu vào, bảo quản, chế biến và bao tiêu sản phẩm...
Khảo sát tại huyện Lục Ngạn, địa phương có diện tích vải thiều lớn nhất cả nước (khoảng 16.300 ha) cho thấy, 3 năm gần đây, điệp khúc "được mùa, rớt giá" không còn, nông dân Lục Ngạn nói riêng, tỉnh Bắc Giang nói chung phấn khởi khi vải thiều không chỉ tiêu thụ thuận lợi ở trong nước mà còn xuất khẩu, mang lại giá trị kinh tế cao; trong đó có sự tham gia tích cực của các DNnhư: Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, Công ty cổ phần chế biến thực phẩm xuất khẩu G.O.C, Công ty TNHH một thành viên Dũng Sỹ, Công ty TNHH Ánh Dương Sao, HTX Bình Minh...Năm 2015, sản lượng tiêu thụ toàn huyện đạt 118 nghìn tấn, tổng giá trị thu được 1.770 tỷ đồng; năm 2016, sản lượng đạt 91.500 tấn, giá trị đạt hơn 2 nghìn tỷ đồng."Nếu không có sự góp sức của DN, vải thiều Lục Ngạn khó có thể vào được các thị trường nước ngoài khó tính như: Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước EU”, ông Cao Văn Hoàn, Phó Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn khẳng định.
Tại huyện Yên Dũng, vài năm gần đây, địa phương đã triển khai nhiều mô hình liên kết với các DN trong sản xuất nông nghiệp cho hiệu quả kinh tế cao. Chỉ tính riêng năm 2015, trong trồng trọt, toàn huyện đã có 16 mô hình cánh đồng mẫu lớn có liên kết sản xuất với quy mô hàng trăm ha. Các công ty đã ký kết hợp đồng cung ứng giống, vật tư phân bón phục vụ cho bà con sản xuất và bao tiêu sản phẩm. Điển hình như: Mô hình sản xuất khoai tây chế biến Atlantic tại xã Tư Mại doCông ty TNHH Thực phẩm Orion Việt Namduy trì thực hiện từ năm 2012 đến nay, quy mô 40 ha; mô hình khoai tây chất lượng tại các xã Yên Lư, Đức Giang, Tân An…với quy mô 120-150 ha/năm. Mô hình sản xuất rau tại xã Cảnh Thụy do HTX Dịch vụ nông nghiệp Cảnh Thụy liên kết với Công ty TNHH Hưng Việt thực hiện quy mô 5 ha/vụ… Hộ anh Hoàng Văn Bắc, thôn Hưng Thịnh, xã Tư Mại (Yên Dũng) tham gia mô hình cánh đồng mẫu lớn sản xuất khoai tây Atlantic cách đây 4 năm. Ngoài được nhà nước hỗ trợ theo quy định, Công ty TNHH Thực phẩm Orion Việt Nam hỗ trợ một phần giá giống, thuê máy làm đất, gia đình anh và bà con trong xã còn được DN bao tiêu sản phẩm. Có những vụ do cung vượt cầu, nhiều nông dân lo lắng khó tiêu thụ, giá thành hạ, song DN vẫn thu mua với giá cam kết, thậm chí còn điều chỉnh tăng giá khi sức mua trên thị trường tăng. "Nhờ có DNtham gia liên kết sản xuất mà vài năm gần đây, nông dân trong xã cảm thấy phấn khởi, yên tâm sản xuất.", anh Bắc chia sẻ.
Tìm hiểu tại huyện Yên Thế, trước đây, cây chè do người dân ở nhiều xã trồng năng suất thấp, chất lượng giảm do nông dân chưa biết áp dụng khoa học kỹ thuật cao vào sản xuất. Năm 2010, Công ty TNHH Hiệp Thành triển khai dự án "Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình nhân giống vô tính, trồng thâm canh, cải tạo nương chè già cỗi bằng một số giống chè mới và chế biến an toàn tại huyện Yên Thế". Đến nay, có khoảng 100 ha chè già cỗi được cải tạo, 120 ha được trồng mới, mỗi năm cung cấp 100 vạn cây giống sản xuất bằng phương pháp vô tính; năng suất tăng 50 kg búp tươi/sào/năm so với trước. Ông Thân Dỹ Ngữ, Giám đốc Công ty cho biết: Từ dự án đã có gần 600 hộ được hưởng lợi; tổng diện tích chè toàn huyện từ 230 ha đến nay đã lên tới 500 ha, tập trung nhiều ở các xã: Canh Nậu, Đồng Vương, Phồn Xương, Đồng Tiến, Đồng Tâm, Tam Tiến, Hồng Kỳ, Xuân Lương.
Có thể khẳng định, sự tham gia đầu tư của DN trong lĩnh vực nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọngtrong chuỗi giá trị sản xuất. Từ các mô hình liên kết, hợp tác giữa các HTX, tổ hợp tác với DN đã giúp người dân tiếp cận với phương thức sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng tiến bộ KHKT nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm. Đồng thời, xác lập mối quan hệ bền chặt giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu. Qua đó, giúp người nông dân yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, tạo nền tảng vững chắc để nôngnghiệp phát triển bền vững.
DN đầu tư chiếm... 1%
Trở lại câu chuyện tiêu thụ nông sản ở huyện Lục Ngạn, ông Cao Văn Hoàn, Phó Chủ tịch UBND huyệncho biết: Được coi là "thủ phủ" trái cây ở miền Bắc với nhiều loại như vải thiều, cam Đường Canh, bưởi Diễn, táo Đài Loan..., song đầu ra của những sản phẩm chưa thực sự ổn định, bền vững. Ngoài vải thiều được một số DN ở trong và ngoài tỉnh tham gia ký kết thu mua theo mùa vụ, còn lại đa số trái cây khác được bán cho thương lái. Nếu như khan hiếm, việc tiêu thụ thuận lợi; khi nguồn cung dồi dào nông dân dễ bị ép giá. Trên địa bàn huyện chỉ có 1-2 DN đầu tư thiết bị, dây chuyền máy móc để thu mua, chế biến nông sản, song quy mô cũng rất nhỏ.
Tương tự như trái cây của huyện Lục Ngạn, gà đồi Yên Thế tuy đã xây dựng được thương hiệu nhưng cũng "vắng bóng" DN tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất mà chủ yếu vẫn là các thương lái ở trong và ngoài huyện đến mua và đem đi tiêu thụ ở các chợ đầu mối. Hiện tổng đàn gà của huyện Yên Thế khoảng 4,1 triệu con với gần 9 nghìn hộ chăn nuôi, quy mô 500 đến 2.000 nghìn con/lứa.
Đáng chú ý, mặc dù diện tích và sản lượng cây lương thực, rau màu và nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh khá lớn, nhưng nguồn thức ăn chăn nuôi hầu như phải nhập khẩu nguyên liệutừ các nước Trung Quốc, Thái Lan với giá thành đắt đỏ, ít có DN trực tiếp thu mua nguyên liệu, chế biến tại chỗ. Câu chuyện người chăn nuôi "khóc dở, mếu dở" khi chi phí đầu vào cao, giá bán ra thấp vẫn xảy ra ở nhiều địa phương. "Nếu như có nhiều DN đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi hoặc liên kết tiêu thụ sản phẩm, nông dân sẽ bớt nhọc nhằn", ông Nguyễn Văn Hậu, một hộ nuôi lợn quy mô lớn ở xã Bắc Lý (Hiệp Hòa) chia sẻ.
Được biết, toàn tỉnh có gần 70 dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, phần lớn, các dự án là kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chăn nuôi nhỏ... Tuy nhiên, số DN đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 1% tổng số DN trên địa bàn tỉnh được cấp phép hoạt động.
Theo bà Bùi Thị Thu Thủy, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Giang, mặc dù tỉnh có nhiều chính sách thu hút đầu tư, nhưng các dự án phần lớn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Nhiều DN tuy có đăng ký ngành nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp nhưng năng lực không đủ mạnh, hoạt động cầm chừng, số DN đầu tư quy mô lớn để sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đặc biệt, các DN tham gia ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp rất ít. Vì sao DN lại chưa "mặn mà" trong lĩnh vực này - là vấn đề nhiều người quan tâm.
KỲ II: GỠ NÚT THẮT ĐỂ "HÚT” DOANH NGHIỆP
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, lĩnh vực nông nghiệp có nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển, song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Tháo gỡ khó khăn, có cơ chế thu hút các doanh nghiệp (DN) đầu tư, xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị là vấn đề đặt ra hiện nay.
Vì sao DN chưa mặn mà?
Qua tìm hiểu, có nhiều nguyên nhân khiến DN chưa mặn mà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Trước hết, hạ tầng ở các vùng chăn nuôi, trồng trọt ở một số địa phương chưa đồng bộ, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi. Vùng nguyên liệu tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, miền núi, khó khăn trong lưu thông hàng hóa. Để giải quyết những vướng mắc đó, DN phải bỏ ra nguồn kinh phí lớn, trong khiđầu tư lĩnh vực nông nghiệp mức độ rủi ro cao như thiên tai, dịch bệnh, thị trường. Ở nhiều nơi, cấp uỷ, chính quyền chưa thực sự quan tâm quy hoạch vùng cũng như đầu tư nguồn lựcđối với lĩnh vực này.
Đặc biệt, quỹ đất tập trung cho sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương còn ít, diện tích không đáp ứng yêu cầu, khi DN muốn đầu tư quy mô lớn thường gặp khó khăn. Cách đây vài tháng, một số DN lớn đã đến khảo sát quỹ đất để đầu tư ở một địa phương nhưng không thành. Điển hình như Công ty cổ phần Vineco (DN chuyên sản xuất và tiêu thụ rau, thuộc Tập đoàn Vingroup của Nhật Bản) cần 200 ha đất liền vùng để mở các trang trại, khi đoàn đi khảo sát ở 4-5 huyện nhưng vẫn không đủ diện tích nói trên. Hay như Công ty TNHH True Milkmuốn đầu tư nông trường nuôi bò sữa diện tích 500 ha ở huyện Lục Ngạn song huyện cũng không thể đáp ứng.
Thậm chí, một số DN muốn mở rộng quy mô với diện tích chỉ vài chục ha cũng rất khó khăn. Đơn cử như ở xã Ngọc Châu (Tân Yên), mới đây, Công ty cổ phần KCF Lạng Sơn có chủ trương triển khai dự án trồng 30 ha chanh đào để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Công ty cam kết sẽ hỗ trợ giống, tập huấn kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Song qua khảo sát, diện tích trồng chanh đào của xã manh mún, nhỏ lẻ, chỉ đáp ứng được 20%, không đủ sản lượng cung cấp nên DNchuyển hướng đầu tư sang tỉnh khác.
Cùng đó, chính sách hỗ trợ lãi suất, vay vốnhiện vẫn còn những trở ngại nhất định, nhất là việc tiếp cận chính sách ưu tiên ứng dụng công nghệ cao. Công ty cổ phần Giang Sơn có trụ sở tại xã Đồng Tâm (Yên Thế), ngành nghề chủ yếu là giết mổ, chế biến gia cầm (sản lượng tiêu thụ khoảng 1 nghìn tấn gà đông lạnh/năm) cũng đang gặp khó về vốn và diện tích nhà xưởng. Hiện công ty đang sử dụng hơn 1 nghìn m2 đất, vừa là nơi giết mổ, chế biến gia cầm vừa là văn phòng đại diện. BàNguyễn Thị Tâm, Giám đốc Công ty cho biết: DN rất muốn mở rộng dây chuyền, quy mô nhưng số vốn mà chúng tôi vay của ngân hàng chỉ đáp ứng được khoảng 20% cho hoạt động kinh doanh. "Nếu như nhà nước ưu đãi hơn về lãi suất, mức vay đối với DN đầu tư lĩnh vực nông nghiệp, DN sẽ bớt khó khăn hơn", bà Tâm nói.
Bên cạnh đó, vấn đề liên kết theo mô hình tổ hợp tác, HTX trong chuỗi giá trị sản xuất còn lỏng lẻo; năng suất, chất lượng một số sản phẩm của nông dân làm ra chưa đáp ứng yêu cầu của DN. Tìm hiểu tại Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu VIFOCO (KCN Song Khê-Nội Hoàng)- DN chuyên chế biến rau quả xuất khẩu sản phẩm đóng hộp như cà chua bi, dưa chuột bao tử, dứa, vải thiều sang thị trường các nước: Nga, Hàn Quốc, Đức với giá trị ước đạt 2 triệu USD/năm (tương ứng 40 tỷ đồng). Ngoài thu mua nguyên liệu để chế biến ở một số địa phương trong tỉnh, hiện nay DNnày vẫn phải nhập 30% nguyên liệu ở tỉnh ngoài. Đáng chú ý, cây dứa được trồng nhiều ở xã Bảo Đài (Lục Nam) và Việt Lập (Tân Yên), nhưng Công ty lại nhập nguyên liệu hoàn toàn ở tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn (khoảng 500 tấn/vụ).
Theo ông Nguyễn Xuân Việt, Giám đốc Công ty,nguyên nhân chính là do người nông dân chưa đáp ứng được yêu cầu về sản lượng.Ngoài ra, chất lượng quả dứa cũng chưa đạt yêu cầu của DN như quả nhỏ, mắt dầy... Trong khi đó, việc kiểm tra, giám sát, tuân thủ quy trình trồng, chăm sóc của nông dân chưa được quản lý chặt chẽ. "Các sản phẩm khi xuất khẩu vào thị trường khó tính bị kiểm tra rất nghiêm ngặt về điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm như dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hàm lượng chì... Nếu chỉ cần một hộ không thực hiện nghiêm quy trình sẽ ảnh hưởng tới uy tín DN",ông Việt chia sẻ. Nhữngyếu tố trên đã tác động không nhỏ tới giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh, sau 3 năm triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu nông nghiệp, giá trị sản xuất bình quân/ha đất sản xuất nông nghiệp năm 2016 của tỉnh ước đạt 85 triệu đồng/ha, chưa đạt mục tiêu đề án đề ra (110-120 triệu đồng/ha).
Làm gì để "hút" DN?
Có thể thấy trong điều kiện, trình độ canh tác, khả năng tiếp cận thị trường của đại bộ phận nông dân còn hạn chế. Cùng đó, nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, việc áp dụng tiến bộ KHKT, nhất là ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất còn khó khăn nhất định. Từ thực tế này cho thấy, vai trò của DN trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, nhất là trong giai đoạn hội nhập là rất quan trọng và cần thiết. Vấn đề đặt ra là cần những giải pháp nào để "hút" DN đầu tư vào lĩnh vực này.
Ông Vũ Đình Phượng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Giang cho rằng: Một trong những giải pháp quan trọng đó là các địa phương phải đẩy mạnh hơn nữa công tác dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất, tạo ra quỹ đất tập trung lớn. "Đây là vấn đề khó nhưng nếu chúng ta không quyết tâm cao sẽ rất khó thu hút các DN đầu tư", ông Phượng nói. Ngoài ra, các chính sách liên quan đến đổi mới công nghệ, lãi suất ngân hàng cũng phải được rà soát, điều chỉnhtheo hướng thuận lợi, ưu tiên hơn để khuyến khích DN đầu tư, triển khai các dự án.
Còn theo Tiến sĩ Chu Thúc Đạt, Phó Vụ trưởng, Vụ Phát triển KH&CN địa phương (Bộ KH&CN), tỉnh Bắc Giang cầnlựa chọn địa bàn quy hoạch xây dựng khu, vùng nguyên liệu hợp lý, dựa trên điều kiện thuận lợi tối ưu cho sản xuất đối với từng loại sản phẩm như: Khí hậu, giao thông, nguồn nước tưới, đất đai... để người dân và DN sẵn sàng tham gia. Tích cực hỗ trợ, tư vấn cho DN lựa chọn công nghệ phù hợp với từng đối tượng cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Qua đó, DN cảm thấy tin tưởng, nhìn thấy lợi nhuận, hiệu quả khi bỏ vốn đầu tư."Chúng ta cần có những chính sách ưu tiên các DN tham gia nghiên cứu các đề tài, dự án ứng dụng khoa học và công nghệ. Đồng thời, khuyến khích các DN nghiên cứu các sản phẩm có sự đặt hàng của các địa phương. Như vậy, hiệu quả của việc liên kết "4 nhà" sẽ cao hơn" - Ông Nguyễn Đức Kiên, Giámđốc Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Giang cho biết.
Một giải pháp cũng rất quan trọng đó là đẩy mạnh việc thành lập nhiều HTX kiểu mới, các nhóm hộ để liên kết, bắt tay với DN sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Khi nông dân tham gia HTX với vai trò là thành viên, cần gắn quyền lợi với nghĩa vụ của họ. Để làm được điều đó, DN phải là đầu tầu về đầu tư công nghệ, tham gia định hướng tổ chức sản xuất nguyên liệu, thu mua chế biến, xây dựng thương hiệu và thị trường tiêu thụ và cùng hưởng lợi với nông dân. Thực tế cho thấy, việc chuyển giao công nghệ cho nông dân thông qua DN làm tăng giá trị tới 30%.
Với người nông dân cần thay đổi tư duy sản xuất, hiểu được ý nghĩa, lợi ích của việc bắt tay liên kết với DN trong chuỗi giá trị. Tuân thủnghiêm các quy trình sản xuất, bảo đảm an toàn, chất lượng sản phẩm. Liên kết chặt chẽ với mô hình HTX kiểu mới, tổ hợp tác, hiệp hội, thực hiện tốt việc giám sát trong trồng trọt, chăn nuôi, chế biến sản phẩm giữa các hội viên. Tích cực áp dụng tiến bộ KHKT, nhất là việc ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao giá trị sản xuất.
Từ thực tiễn đó, cùng với Nghị quyết 73/NQ-TU, ngày 6-5-2016 của Tỉnh uỷ Bắc Giang về việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 và một số chính sách đã ban hành trước đó, ngày 16-8-2016, BTV Tỉnh ủy Bắc Giang đã ban hànhNghị quyết 130/NQ-TU về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016-2020. Nội dung của Nghị quyết cũng đề cập tới việc ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất để khuyến khích nhân dân, các thành phần kinh tế và DN đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản. Mục tiêu đến năm 2020, năng suất tăng từ 20 - 30%, tăng giá trị gia tăng từ 20-30% so với thời điểm hiện tại...
Đất nước đang trong thời kỳ hội nhập phát triển, sản xuất nông nghiệp của nước ta, trong đó có tỉnh Bắc Giang có nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Sẽ không thể giải quyết bền vững các vấn đề của nông nghiệp nếu thiếu các DN có năng lực. Với tư duy mới, cách làm mới cùng sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, hy vọng giai đoạn tới, sản xuất nông nghiệp của tỉnh sẽ có bước tiến vượt bậc, tạo nền tảng vững chắc, góp phần thúc đẩy KT-XH ngày một phát triển.
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI:
GÁNH NẶNG LẠM THU
Giải A, năm 2016
Nhóm tác giả: Thanh Huyền, Quốc Tài,
Anh Hoàng, Hồng Thơm
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
T |
ừ huyện miền núi xa xôi, đến trung tâm thành phố của tỉnh Bắc Giang, đâu đâu cũng thấy khẩu hiệu "chung sức xây dựng nông thôn mới”. Với sự hưởng ứng sâu rộng, sự đồng lòng, quyết tâm cao của cấp ủy, chính quyền địa phương và các tầng lớp nhân dân, phong trào đã tạo nên sức sống mới, diện mạo mới cho các miền quê vốn còn nghèo và khó khăn của tỉnh Bắc Giang.
Một chủ trương đúng, hợp lòng dân nhưng tại một số địa phương trong tỉnh, câu chuyện về bệnh thành tích, sự lãng phí trong đầu tư xây dựng và cách hành xử ép buộc, hành dân trong xây dựng nông thôn mới (NTM) đang trở thành vấn đề nóng và điểm nóng cần được quan tâm, giải quyết.
Vì chưa nộp tiền làm đường giao thông nông thôn nên bị giữ thẻ bảo hiểm y tế, đó là câu chuyện xảy ra đối với 20 hộ dân tại thôn Đồng Tuấn xã Thanh Hải huyện Lục Ngạn.
Ngày 4/3/2016, sau khi thôn gọi loa cho các hộ gia đình ra nhà văn hóa lấy thẻ bảo hiểm y tế, anh Hoàng Văn Lộc đại diện gia đình đi lấy thẻ. Tuy nhiên, gia đình anh cùng 19 hộ dân khác bị từ chối việc trả thẻ với lý do:
PV: Anh Hoàng Văn Lộc, thôn Đồng Tuấn, xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn
Đây chính là con đường bê tông mà vì chưa nộp tiền 20 hộ gia đình bị trưởng thôn giữ lại thẻ bảo hiểm y tế. Theo đại diện các hộ cho biết lý do chưa nộp vì đây là đường nhánh và chưa đồng thuận với chủ trương làm đường và bị ban quản lý thôn ép buộc vô lý.
PV: Ông Diệp Văn Nguyên, thôn Đồng Tuấn, xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn
Thừa nhận việc lãnh đạo thôn có giữ thẻ bảo hiểm y tế của 20 hộ gia đình do chưa nộp tiền làm đường giao thông nông thôn, ông Nguyễn Văn Bảy, trưởng thôn cho biết: thôn đã thông qua nghị quyết khi làm con đường này, được các hộ gia đình nhất trí cao. Trưởng thôn này còn cho biết thêm: kể cả hộ nghèo cũng phải nộp tiền, không trừ bất kỳ ai.
PV: Ông Nguyễn Văn Bảy, trưởng thôn Đồng Tuấn, xã Thanh Hải, Lục Ngạn
Nghèo cũng phải đi nên nghèo cũng phải nộp tiền, theo cách làm mà vị trưởng thôn này cho là có nghị quyết của chi bộ và theo hương ước của thôn đã khiến cho nhiều hộ nghèo đã nghèo nay lại nghèo thêm.
Vốn đã nằm trong danh sách hộ nghèo, từ khi có chủ trương xây dựng NTM, chị Phùng Thị Xuân phấn khởi và tin tưởng sẽ có thêm động lực để cố gắng tập trung vươn lên thoát nghèo. Nhưng, với quá nhiều khoản quỹ phải thu, rồi các loại tiền huy động từ xây dựng nhà văn hóa đến làm đường giao thông… khiến chị gồng thêm gánh nặng phải làm và lo tiền cho đủ nộp.
PV: Chị Phùng Thị Xuân, thôn Đồng Tuấn, xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn
Bị ép buộc, thậm chí dọa cắt danh sách hộ nghèo nên nhiều hộ nghèo như chị Xuân đành lòng và cầm lòng nộp tiền cho xong. Nhưng với chị Phùng Thị Thanh, vì không có khả năng đóng góp nên hậu quả mà 2 mẹ con chị nhận được là bị bỏ lại đoạn đường sỏi đá trước cửa nhà dù cả tuyến đường bê tông đẹp đẽ như thế này.
PV: Chị Phùng Thị Thanh, thôn Đồng Tuấn, xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn
Thiếu công khai, dân chủ, tự ý đề ra những nghị quyết trái với chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước khi xây dựng NTM. Tình trạng này đáng nói là đang xảy ra khá phổ biến tại xã trên địa bàn huyện Lục Ngạn, một huyện chiếm tới hơn 50% hộ nghèo. Việc làm này, chính quyền địa phương có biết hay không?
PV: Ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn
Biết và đã xử lý. Thế nhưng, việc huy động hộ nghèo đóng góp vẫn diễn ra ở nhiều địa phương với cách làm, cách nghĩ sai lệch.
PV: Ông Nguyễn Văn Tạo, trưởng thôn Nguộn Trong, xã Hồng Giang, Lục Ngạn
Ngoài huyện Lục Ngạn, tại một số địa phương trong tỉnh, tình trạng này cũng diễn ra khá phổ biến.
Hộ nghèo, hộ khuyết tật phải đóng góp như các hộ gia đình khác với mức đóng góp như ở thôn Đồng Tân, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa là 500 nghìn đồng/nhân khẩu cho một gia đình có 1 mẹ già, vợ ốm đau và 3 đứa con đang tuổi đi học liệu có đúng và vì dân hay không?
PV: Bà Đinh Thị Hình, thôn Đồng Tân, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa
PV: Bà Ngô Thị Quế, trưởng thôn Đồng Tân, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa
Bằng mọi cách để đạt đủ các tiêu chí xây dựng NTM, kể cả cách hành xử với dân theo kiểu ép buộc hộ nghèo, hộ khuyết tật lo tiền đóng góp. Thực chất, khi đạt được mục tiêu NTM, người dân có được hưởng thành quả hay lại tiếp tục lo nỗi lo trả nợ từ các dự án đầu tư xây dựng NTM?
Xã Đức Giang huyện Yên Dũng được công nhận xã chuẩn NTM năm 2015. Để đủ các điều kiện, tiêu chí, nguồn vốn đầu tư là con số gấp cả chục lần tổng kinh phí được cấp một năm của cả xã.
PV: Ông Nguyễn Quang Thôn, Chủ tịch UBND xã Đức Giang, huyện Yên Dũng
Số tiền lớn là vậy nhưng vì là vốn đầu tư của ngân sách nên cứ theo tiêu chí mà làm cho đủ. Nhà văn hóa xã đầu tư hơn 2 tỷ đồng to đẹp mà không phát huy hết diện tích sử dụng… Trên một trục đường chưa đầy 100 mét có tới 3 khu vui chơi thể thao. Thu hồi đất ruộng, nhân dân đồng tình cao ủng hộ nhưng sau hơn 1 năm, họ đã nghĩ khác:
PV: Ông Nguyễn Văn Sự, thôn Hạ, xã Đức Giang, huyện Yên Dũng
Đầu tư lãng phí, chạy theo thành tích nên hậu quả để lại cho các xã trong quá trình xây dựng NTM là số tiền nợ hàng tỷ đồng chưa biết đến khi nào mới trả xong.
Mặc dù chưa xác định được nguồn lực đầu tư, song để đảm bảo tiêu chí Văn hóa, xã Liên Chung, huyện Tân Yên đã quyết định đầu tư xây dựng Hội trường nhà văn hóa xã có quy mô lớn và hiện đại như thế này… Công trình trị giá lên tới trên 5 tỷ đồng.
Còn đây là sân vận động xã, cũng bề thế không kém... tổng giá trị đầu tư cũng lên đến trên 4 tỷ đồng… Thế nhưng điều đáng nói là sau gần 3 năm… công trình vẫn trong tình trạng dở dang… Đặc biệt là, nguồn vốn đầu tư thì lớn, song lại không phát huy hết công năng sử dụng, gây lên tình trạng không có thì thiếu mà có thì lại thừa. Người dân thì xót xa vì sự lãng phí và gồng gánh nợ trả. Còn chính quyền địa phương, với số tiền nợ đọng xây dựng cơ bản lên tới hai chục tỷ đồng, đây là cách để trả nợ đọng từ các dự án xây dựng NTM.
PV: Ông Nguyễn Xuân Phú, Chủ tịch UBND xã Liên Sơn, huyện Tân Yên
Đây cũng là câu trả lời chung của các xã hiện nay khi được hỏi về kinh phí để trả nợ tiền nợ đọng từ các công trình NTM. Bán đất… quy hoạch đất… liệu đất đai có đủ để đấu giá cho những công trình đã xong và đang tiếp tục xây dựng như hiện nay.
Nợ đọng xây dựng NTM thành vấn đề nóng tại các kỳ họp HĐND từ tỉnh đến xã; tại các buổi tiếp xúc, đối thoại với người đứng đầu UBND tỉnh, huyện. Theo thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Giang, hiện số tiền nợ đọng xây dựng cơ bản của cả tỉnh hiện nay là hơn 600 tỷ đồng. Trong đó, riêng của 36 xã đạt chuẩn NTM là hơn 200 tỷ đồng, tính trung bình mỗi xã nợ khoảng gần 5 tỷ đồng. Đối với 12 xã đăng ký đạt chuẩn NTM năm 2016 cũng đã phát sinh nợ gần 100 tỷ đồng, bình quân khoảng hơn 3 tỷ đồng/xã.
Cần phải nhìn nhận đúng thực chất, cách làm, ý nghĩa của chủ trương xây dựng NTM hiện nay. Cần chấm dứt việc huy động quá sức của nhân dân, của các hộ nghèo. Đây cũng là thực tế không chỉ tỉnh Bắc Giang.
PV: GS,TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ NN & PTNT
Huy động sức dân là chủ trương đúng đắn khi đã phát huy được nội lực trong dân, cùng chung tay xây dựng NTM. Tuy nhiên, huy động không phải là ép buộc và bằng mọi giá, mọi đối tượng khiến cuộc sống của người dân thêm khó khăn.
Quay trở lại với vụ việc của gia đình anh Hoàng Văn Lộc, dù đã nhiều tháng qua, gia đình anh vẫn chưa được trả thẻ bảo hiểm y tế vì vẫn chưa nộp đủ tiền làm đường giao thông. Không có thẻ bảo hiểm, gia đình anh có mẹ già, con khuyết tật đau ốm phải vay mượn tiền đi chữa bệnh. Trong khi mẹ anh là con liệt sĩ, gia đình anh là hộ dân tộc thiểu số. Bức xúc vì việc làm vô lý của chính quyền địa phương, mẹ anh đã ủy quyền để anh Lộc khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, đòi bồi thường số tiền 6,5 triệu đồng đi chữa bệnh.
PV dẫn: Vụ kiện hy hữu xảy ra tại tỉnh Bắc Giang từ cách làm thiếu dân chủ, ép buộc, sai lệch của đội ngũ lãnh đạo thôn, xã khi xây dựng NTM. Đúng hay sai, trách nhiệm thuộc bên nào sẽ có Tòa án phân xử. Tuy nhiên, những câu chuyện từ cách làm chưa đúng, cách hành xử không vì dân chỉ để đạt mục tiêu xây dựng NTM ở một số địa phương đã để lại hệ lụy khôn lường. Đó là để lại gánh nặng cho nhân dân, và hơn nữa là mất niềm tin từ cách làm sai khi thực hiện chương trình xây dựng NTM và phát sinh nhiều điểm nóng tại các địa phương từ cách làm sai lệch, chạy theo thành tích của chủ trương xây dựng NTM.
GIỮ TRỌN LỜI THỀ
Giải A, năm 2017
Nhóm tác giả: Giang Nam, Thanh Huyền,
Đức Bích, Thanh Lịch
Thể loại: Phim tài liệu
D |
òng sông Thương quê tôi bao đời nay vẫn chảy, yên bình, ấp ôm, vỗ về tuổi thơ của bao thế hệ lớn lên tại đây… Đôi bờ trong, bờ đục… như kể cho chúng tôi nghe biết bao câu chuyện. Vui có, buồn có. Chuyện về đảng viên bị cám dỗ đồng tiền sa ngã, vướng vào vòng lao lý… Và có cả tấm gương của người đảng viên trung kiên, giữ trọn lời thề, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân…
Gần 10 năm nay, hình ảnh người Bí thư chi bộ thôn Bo Chợ (xã Đông Sơn, huyện Yên Thế) Nguyễn Văn Ngọc đã trở nên quá quen thuộc, gần gũi mà yêu thương đối với người dân nơi đây… Đều đặn hàng ngày từ sáng… trưa… tới tối… ông luôn có mặt, đến từng hộ dân, lắng nghe từng câu chuyện, vừa là để sẵn sàng sẻ chia, vừa có thêm thông tin để giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh…
Lớn lên bên dòng sông Thương, sau những năm tháng cống hiến tuổi xuân vì hòa bình, độc lập của dân tộc, người đảng viên, cựu chiến binh Nguyễn Văn Ngọc trở về quê hương với biết bao nỗi niềm trăn trở: "quê mình còn nghèo và lạc hậu quá”. Tham gia sinh hoạt chi bộ, được tín nhiệm bầu là Bí thư, nỗi niềm trăn trở ấy càng bám riết lấy ông. Chi bộ Bo Chợ lúc ấy nhiều năm liền không đạt trong sạch, vững mạnh; gần một nửa số hộ trong thôn thuộc diện hộ nghèo.
Dám nghĩ, dám làm. Nghị quyết đầu tiên được ông cùng chi ủy, chi bộ ban hành là xóa đói giảm nghèo.
Muốn cho dân tin thì người cán bộ, đảng viên phải làm trước. Đã nói là làm. Ruộng nương, đất đai cằn cỗi, ít ỏi… Nghề đốt lò làm gạch, cay ngừng sản xuất do không đảm bảo điều kiện. Trong khi đó, những cánh rừng trơ sỏi. Một mình ông khi ấy băng rừng, lội suối, đi phát rẫy, trồng keo, trồng bạch đàn… Khó khăn không chùn bước… Ý chí quyết tâm đã giúp cho người Bí thư chi bộ này thành công.
PV: Ông Nguyễn Văn Ngọc, Bí thư Chi bộ thôn Bo Chợ, xã Đông Sơn, Yên Thế
(Từ chỗ đất trống đồi trọc, tôi trồng được 4 héc ta, bà con thấy làm hiệu quả nên làm theo, đến nay đã phủ xanh...)
Để bà con trong thôn tin và làm theo, ông sẵn sàng hỗ trợ cây giống, hướng dẫn bà con cách trồng, chăm bón… Ở đâu còn đất trống, rừng bị chặt phá, ông đều đến tận nơi, trồng vào đó những cây rừng mới…
PV: Bà Vũ Thị Định, Thôn Bo Chợ, xã Đông Sơn, huyện Yên Thế
(Được ông Ngọc cho mượn đất rừng của gia đình, hỗ trợ giống, kỹ thuật…)
Nghị quyết về xóa đói, giảm nghèo được Chi bộ giao mỗi đảng viên phải giúp từ 1 đến 2 hộ nghèo trong thôn một năm. Khi những cánh rừng được thôn phủ xanh, ông Ngọc là người đầu tiên đưa nghề sản xuất gỗ ép về thôn. Xưởng của gia đình ông thu hút hơn chục lao động địa phương vào làm việc. Gia đình bà Bùi Thị Yến là hộ nghèo nhiều năm. Để giúp gia đình bà Yến thoát nghèo, ngoài việc nhận con trai bà vào làm việc tại xưởng sản xuất, ông Ngọc còn hỗ trợ gia đình vốn, giống, hướng dẫn kỹ thuật trồng cây vườn… Sự chân tình, tấm lòng, sẻ chia về vật chất, tinh thần của người Bí thư chi bộ này đã giúp gia đình bà Yến vượt qua khó khăn, tự nguyện xin thoát nghèo:
PV: Bà Bùi Thị Yến, Thôn Bo Chợ, xã Đông Sơn, huyện Yên Thế
(Không có ông Ngọc giúp đỡ, gia đình tôi không thoát được nghèo…)
Miệng nói, tay làm, tai lắng nghe. Bí thư chi bộ Nguyễn Văn Ngọc là người đầu tiên trong thôn hiến hơn 100 mét vuông đất thổ cư của gia đình để cứng hóa đường bê tông. Với một thôn còn nghèo, mảnh đất trị giá hàng chục triệu đồng qúy lắm. Không phải ai cũng dám làm. Nhưng ông làm được bởi suy nghĩ thật giản dị "Đảng viên đi trước làng nước theo sau”. Mình phải "hy sinh” và gương mẫu. Thế là nhiều hộ dân thôn Bo Chợ làm theo. Bà con đã tình nguyện hiến hơn 4 nghìn mét vuông đất xây dựng hạ tầng giao thông, thủy lợi… Nhân dân cùng đóng góp sức người, sức của, nối liền giao thông thôn, xóm. Mỗi một con đường bê tông khi vận động nhân dân hoàn thành xong đều được ông Ngọc đặt tên, đó là những con đường tình nghĩa, đoàn kết xóm làng… Thôn Bo Chợ trước đây vốn chia cắt các hộ dân bởi suối, ngầm thì nay thông thương thuận lợi.
Lặn lội sớm tối trong thôn, ngoài xóm, không quản ngại khó khăn, vất vả, nếu như không có sự tận tâm của ông Ngọc khi hàng ngày đi kiểm tra, sớm phát hiện điểm sạt trượt tại bờ kè sông Thương qua thôn Bo Chợ thì năm ấy toàn bộ khu di tích đình, chùa và 3 cây di sản quê ông đã bị ngập trắng trong nước… Với 600 mét khối đá, 700 mét khối đất, lát hơn 1 nghìn mét vuông sân gạch, ông cùng nhân dân trong thôn đã bỏ công, bỏ của trong 3 tháng mới xây dựng xong kè chống sạt lở dọc bờ sông. Xông pha công việc ông đều dốc lòng vì việc chung. Cái được lớn nhất là dân quí, dân tin.
PV: Ông Trần Văn Hào, Thôn Bo Chợ, xã Đông Sơn, huyện Yên Thế
(Chỉ có ông Ngọc mới làm được điều này…)
Cả triền sông Thương, nói đến ông Bí thư Ngọc, ai nấy đều nức nở khen là vậy. Ấy vậy mà, cũng bên sông Thương này, cách không bao xa, gần đây người dân xôn xao, bàn tán về một số đảng viên có chức, có quyền lại không giữ được lời thề trước cờ Đảng cờ Tổ quốc, xa dân, quan liêu, tham nhũng sa ngã… để lại tiếng xấu ở đời.
Ông Nguyễn Tiến Duẩn, nguyên Chủ nhiệm UBKT huyện ủy Yên Dũng vừa bị công an khởi tố vụ án hình sự. Quá trình điều tra, cơ quan công an xác định trong thời gian ông Nguyễn Tiến Duẩn giữ chức vụ Trưởng Phòng LĐ-TB&XH huyện Yên Dũng, đã thực hiện nhiều thủ đoạn rút ruột ngân sách, vi phạm pháp luật dẫn đến hậu quả thâm hụt quỹ hơn 5 tỷ đồng… Đau đớn hơn, là có cả sai phạm trong chi trả chế độ trợ cấp cho người có công với cách mạng và các đối tượng chính sách xã hội, những người đã hy sinh xương máu vì nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Cũng là một nỗi đau khác khi là đảng viên họ không nêu tinh thần tiền phong gương mẫu, mà đã suy thoái về đạo đức, lối sống, tha hóa biến chất. Là đảng viên, Bí thư chi bộ, Giám đốc công ty cổ phần Giống chăn nuôi Bắc Giang, nhưng Thân Văn Long (SN 1958) và một số đối tượng khác vì "ăn chặn tiền của dân, lập chứng từ khống, rút tiền từ dự án chăn nuôi dê, cừu sinh sản cho đồng bào dân tộc để tham ô hơn 600 triệu đồng.
Trong trại giam, đằng sau song sắt, Nguyễn Tiến Duẩn, Thân Văn Long nghĩ gì. Người dân lam lũ một nắng hai sương với mong mỏi bớt đói nghèo… Những cây lúa ngoài đồng trổ bông uốn câu như câu hỏi xoáy vào tim. Tại sao Duẩn, Long bị những viên đạn bọc đường làm gục ngã… Xa dân, trục lợi từ mồ hôi nước mắt của dân. Họ có tội với Đảng với nhân dân. Sự ân hận, nỗi đau này sẽ còn giằng xé dai dẳng trong quãng đời còn lại.
Chủ nghĩa cá nhân là thứ giặc nội xâm, nó đã làm sa ngã không ít đảng viên có chức có quyền. Bởi họ đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của tập thể. Còn đảng viên như ông Bí thư Ngọc lại có suy nghĩ khác. "Mình làm những gì dân cần, dân muốn”. Và luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Hiếm có người Bí thư chi bộ nào như ông, xốc vác cắm từng cọc biển báo giao thông… lắp từng bóng điện chiếu sáng… Dành mấy tháng lương, mua toàn bộ bóng điện, cùng các hộ dân thắp sáng đường quê… Cũng hiếm có người Bí thư chi bộ nào mà được dân mến, dân tin như ông. Mỗi chủ trương, nghị quyết của chi bộ khi ban hành đều công khai, dân chủ, xin ý kiến người dân. Những cuộc họp như thế tại hội trường nhà văn h, ông Bí thư thôn luôn được người dân đồng thuận ủng hộ những sáng kiến "vì dân”.
Và cũng trên diễn đàn, cũng tại hội trường rộng lớn như thế này… Duẩn, Long cũng đã từng rao giảng những điều cao siêu nào là đạo đức lối sống, nào là đảng viên nêu gương… Thế nhưng họ "Nói không đi đối với làm”, tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” và gục ngã bởi sự cám dỗ của vật chất.
Còn đối với Bí thư Ngọc, sự tin yêu xuất phát từ tình cảm, tấm lòng của nhân dân. Bởi ông chân thành, bởi ông nhiệt huyết, luôn giữ trọn lời thề trước cờ Đảng. Các đảng viên trong chi bộ từ chỗ ngại va chạm, phê bình, đấu tranh, giờ đây đều dành tâm huyết, noi gương ông Ngọc. Có những quần chúng như ông Nguyễn Văn Ánh, dù tuổi không còn trẻ, song noi gương ông Ngọc, được ông Ngọc cùng chi bộ bồi dưỡng, đã quyết tâm phấn đấu, vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng.
PV: Ông Nguyễn Văn Ánh, Chi bộ thôn Bo Chợ, xã Đông Sơn, huyện Yên Thế
(Tấm gương của ông là động lực để phấn đấu vì nhân dân…)
Có thêm đảng viên mới, có thêm sức mạnh, vai trò của chi bộ được củng cố, tăng cường. Cùng với việc nêu gương, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên, chi bộ thôn Bo Chợ liên tục được công nhận đạt trong sạch vững mạnh. Từ một thôn miền núi còn nhiều khó khăn, thôn Bo Chợ đã hoàn thành tiêu chí được công nhận thôn nông thôn mới của huyện.
PV: Ông Nguyễn Văn Toàn, Đảng viên 60 năm tuổi Đảng, Chi bộ thôn Bo Chợ, xã Đông Sơn, huyện Yên Thế
(Vai trò tiền phong, gương mẫu của ông Ngọc…)
PV: Ông Nguyễn Tiến Hà, Bí thư Đảng ủy xã Đông Sơn, huyện Yên Thế
(Chi bộ tiêu biểu, Bí thư chi bộ tiêu biểu…)
10 năm trở về quê hương, ông Ngọc đã dành trọn tâm huyết, sức lực, cống hiến cho nhân dân, cho sự đổi thay ở vùng quê vốn nghèo khó, lạc hậu. Cuốn sổ nhật ký làm theo Bác đã theo ông suốt nhiều năm, được ông trân trọng lưu giữ và nó cứ ngày càng dày lên bởi những việc tốt của ông.
PV: Ông Nguyễn Văn Ngọc, Bí thư Chi bộ thôn Bo Chợ, xã Đông Sơn, huyện Yên Thế
(Khi tuyên thệ tôi đã thề, lời thề… tôi sẽ vẫn làm tròn lời thề đó…)
Và, lời thề sắt son ấy sẽ mãi trọn vẹn với người Bí thư chi bộ Nguyễn Văn Ngọc suốt 45 năm qua. Thế hệ trẻ ở Bo Chợ hôm nay noi gương ông tiếp tục gìn giữ và phát huy lời thề trung kiên, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân…
Bên này sông, cuộc sống của người dân thôn Bo Chợ đang đổi thay từng ngày với những đảng viên giữ trọn lời thề với Đảng…
Bên kia sông, là câu chuyện đau xót về một số lãnh đạo đang chờ ngày xét xử vì tội danh tham nhũng, lập hồ sơ khống hưởng tiền trợ cấp bão lũ của nhân dân, dự án giảm nghèo đồng bào dân tộc thiểu số… Là những đảng viên còn lợi dụng chức vụ, tha hóa về đạo đức, lối sống… Họ đã quên đi lời thề với Đảng, với nhân dân.
Còn với Bí thư Ngọc cả đời luôn học Bác, làm theo Bác. Nhiều năm liên tục ông được tặng phần thưởng của Thủ tướng, Tỉnh ủy, của huyện ủy Yên Thế. Trong đợt sơ kết một năm thực hiện chỉ thị 05 vào dịp sinh nhật Bác 19/5 về Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, ông là một trong 48 cá nhân tiêu biểu của cả nước vinh dự được Ban Tuyên giáo Trung ương tặng Bằng khen.
Tất cả ngập tràn niềm vui. Nhưng với người cựu chiến binh, Bí thư chi bộ Bo Chợ Nguyễn Văn Ngọc, niềm vui lớn nhất của mình là lòng dân luôn dành cho ông sự trân trọng, tin yêu. Người dân rất cần những người như Bí thư chi bộ Nguyễn Văn Ngọc.
"KHOÁN VIỆC” CHO CẤP ỦY, NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU
CÁCH LÀM CỦA BẮC GIANG
Giải A, năm 2017
Nhóm tác giả: Thế Phương, Thu Phong, Quốc Trường
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: CHỌN VIỆC TRỌNG TÂM, VIỆC KHÓ
T |
riển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, theo chỉ đạo chung, mọi cấp ủy đều phải cụ thể hóa bằng chương trình, đề án... để thực hiện. Bên cạnh ưu điểm là chủ yếu, ở đâu đó, việc cụ thể hóa vẫn là khâu yếu. Khắc phục khâu yếu này cũng như những hạn chế, khuyết điểm chỉ ra qua kiểm điểm tự phê bình, phê bình theo Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI), cùng với nhiều giải pháp khác, từ giữa năm 2013, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy, người đứng đầu đăng ký nhiệm vụ trọng tâm. Qua hình thức "khoán việc” đó, việc thực hiện nhiệm vụ ở địa phương, đơn vị có sự tập trung cao hơn.
Từ bước khởi đầu
Dưới sự chỉ đạo của BTV Tỉnh ủy, từ giữa năm 2013, các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc (gọi chung là cấp ủy cấp huyện) tập trung rà soát, đăng ký nhiệm vụ trọng tâm năm 2014 với BTV Tỉnh ủy. Theo tinh thần chỉ đạo chung, trong số các nhiệm vụ cần chỉ đạo, tổ chức thực hiện, mỗi đơn vị lựa chọn đăng ký 10 nhiệm vụ được cho là trọng tâm, nổi bật, trên cơ sở đó BTV Tỉnh ủy thẩm định, có văn bản xác nhận làm cơ sở để chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện của tập thể cấp ủy và cá nhân người đứng đầu. Cũng từ năm đầu tiên này, trong chỉ đạo, BTV Tỉnh ủy nhấn mạnh, các nhiệm vụ trọng tâm thuộc lĩnh vực KT-XH, quốc phòng - an ninh, xây dựng chính quyền phải có sự gắn kết với nhiệm vụ trọng tâm của chủ tịch UBND cấp huyện đăng ký với Chủ tịch UBND tỉnh để bảo đảm tính thống nhất, tập trung, tránh chồng chéo trong quá trình chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ giữa cấp ủy và chính quyền cùng cấp.
Đáng chú ý, không chỉ đăng ký nhiệm vụ với BTV Tỉnh ủy, căn cứ tình hình cụ thể, các địa phương chỉ đạo các phòng, ban, ngành, chi, đảng bộ cơ sở đăng ký nhiệm vụ trọng tâm với BTV cấp ủy cấp huyện với yêu cầu rõ việc, rõ thời gian, giải pháp, lộ trình, định kỳ hằng quý báo cáo tiến độ thực hiện. Kết quả đăng ký và thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là một trong những căn cứ để BTV cấp ủy cấp trên xem xét, đánh giá xếp loại cuối năm đối với tập thể BTV và đồng chí bí thư cấp ủy cấp dưới. Trên tinh thần đó, việc lựa chọn, xác định nhiệm vụ trọng tâm đã tạo hiệu ứng tích cực trong các cấp ủy và được đánh giá là cách làm sáng tạo, một giải pháp trong đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, từng bước khắc phục khâu yếu trong cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Chia sẻ về việc đăng ký và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy và người đứng đầu, đồng chí Bùi Thế Chung, Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy cho biết: Hằng năm các cấp ủy cấp huyện đăng ký hàng trăm nhiệm vụ liên quan đến mọi lĩnh vực, từ công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị cho đến nhiệm vụ phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trước đó, để nhiệm vụ trọng tâm có tính khả thi cao, trong chỉ đạo, BTV Tỉnh ủy yêu cầu việc đăng ký của cấp ủy phải tiến hành theo phương châm "nghĩ sâu, chọn kỹ”, bám sát phương hướng, nhiệm vụ, các mục tiêu do nghị quyết đại hội Đảng các cấp đề ra, nhất là tình hình thực tiễn, những vấn đề mới đặt ra ở địa phương, đơn vị. Đối với những việc khó, trong lãnh đạo, chỉ đạo đòi hỏi sự tập trung, thống nhất cao, cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải gương mẫu đảm nhận.
Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu
Năm 2017, BTV Tỉnh ủy xác nhận 100 nhiệm vụ trọng tâm của 10 huyện ủy, thành ủy. Điểm chung là các nhiệm vụ được cân nhắc lựa chọn kỹ lưỡng, thảo luận dân chủ, thống nhất trong tập thể BTV cấp ủy, bảo đảm sát với tình hình thực tế địa phương và định hướng chỉ đạo của cấp trên. Khảo sát tại huyện Tân Yên, qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 khóa XI, khóa XII cho thấy ở đâu đó, việc này, việc khác vẫn còn hiện tượng nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu cấp ủy chưa thể hiện rõ tính tiền phong, gương mẫu; còn biểu hiện cửa quyền, chưa thật sự sâu sát cơ sở, ít gặp gỡ nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, những đề xuất, kiến nghị của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Nhận thức đây là "điểm nghẽn” trong công tác xây dựng Đảng, BTV Huyện ủy yêu cầu cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu các cấp xây dựng kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời cơ sở qua việc tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân. Theo đồng chí Lâm Thị Hương Thành, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Bí thư Huyện ủy, đây cũng chính là nhiệm vụ đầu tiên BTV Huyện ủy đăng ký với BTV Tỉnh ủy. Và để nêu gương làm trước, đồng chí Bí thư Huyện ủy là người đầu tiên về cơ sở đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, những đề xuất, kiến nghị của cán bộ, đảng viên và nhân dân ở nhiều xã trên địa bàn.
Tại huyện Yên Dũng, thực hiện nhiệm vụ trọng tâm năm 2017 đã được BTV Tỉnh ủy xác nhận và chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh, trực tiếp đồng chí Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện nhận hai nhiệm vụ "khó” là giải quyết dứt điểm những vấn đề liên quan đến triển khai Dự án đầu tư xây dựng sân Golf và dịch vụ Yên Dũng; hoàn thành giải phóng mặt bằng Dự án cầu Đồng Sơn và đường dẫn lên cầu thuộc địa phận huyện để tạo sự giao thương, kết nối với TP Bắc Giang. Cùng đó xây dựng mô hình sản xuất 30 ha rau an toàn. Tương tự, việc hoàn thành thủ tục hồ sơ mở rộng địa giới hành chính TP được Thành ủy Bắc Giang xác định là nhiệm vụ trọng tâm năm 2017. Huyện ủy Lạng Giang tập trung các nguồn lực xây dựng nông thôn mới; xây dựng từ một đến hai mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Huyện ủy Việt Yên chỉ đạo xây dựng các khu đất dịch vụ tại các khu công nghiệp trên địa bàn để phát triển thương mại- dịch vụ, giải quyết việc làm, thu nhập cho nhân dân và tạo thuận lợi cho hàng nghìn công nhân làm việc tại các doanh nghiệp thuận lợi mua bán hàng hóa; tiếp tục đầu tư hạ tầng đô thị hai thị trấn Nếnh và Bích Động. Huyện ủy Yên Thế chỉ đạo xây dựng khu du lịch sinh thái tâm linh Xuân Lung - Thác Ngà. Huyện ủy Lục Ngạn đăng ký nhiệm vụ tập trung các nguồn lực đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, nhất là ở khu vực các xã vùng cao, vùng đồng bào dân tộc...
Có thể thấy, việc cụ thể hóa nghị quyết đại hội đảng các cấp lựa chọn đăng ký nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đều liên quan trực tiếp đến các chỉ tiêu, kế hoạch công tác đề ra trong năm. Trong đó, lĩnh vực KT-XH tập trung vào công tác quản lý đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giải quyết việc làm, thu nhập và những vấn đề đặt ra ở các khu, cụm công nghiệp; đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, đô thị, xây dựng nông thôn mới; phát triển giáo dục- đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch... Trong công tác xây dựng Đảng tập trung cao nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; quản lý, phân công công tác cho đảng viên gắn với đổi mới sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo... Cũng vì tính cấp thiết của từng nhiệm vụ nên qua tổng hợp của Văn phòng Tỉnh ủy, tính đến hết quý III-2017, nhiệm vụ các cấp ủy đăng ký đều được chỉ đạo, thực hiện theo kế hoạch đề ra. Trong đó, Thành ủy Bắc Giang hoàn thành 6/10 nhiệm vụ, UBND TP hoàn thành 43/63 chỉ tiêu. Huyện ủy Tân Yên hoàn thành và vượt 8/10 nhiệm vụ. Tại huyện Lạng Giang, 50% nhiệm vụ trọng tâm Huyện ủy đăng ký đã thực hiện xong, số còn lại đang được tập trung cao chỉ đạo, thực hiện.
"Năm 2014, nhiệm vụ trọng tâm chính thức trở thành nội dung quan trọng được các cấp ủy triển khai thực hiện và tạo chuyển biến trên nhiều lĩnh vực. Qua bước khởi đầu, đến nay, việc đăng ký nhiệm vụ trọng tâm đã trở thành công việc thường xuyên hằng năm của các cấp ủy đảng.”
KỲ II: GIẢI QUYẾT NHIỀU VẤN ĐỀ NÓNG
Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, với sự tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, nhiều vấn đề bức xúc, nổi cộm kéo dài đã được giải quyết, khắc phục; qua hoạt động đối thoại, cán bộ, đảng viên, nhân dân được trực tiếp phản ánh tâm tư, nguyện vọng đến người đứng đầu mà không phải qua khâu trung gian nào. Hiệu ứng tích cực của những nhiệm vụ trên đã góp phần quan trọng tạo bước chuyển mới trong thực tiễn.
Cả tỉnh ra quân giải quyết ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường, nhất là ở khu vực nông thôn diễn ra ngày càng phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống, tác động trực tiếp đến đời sống, sức khỏe người dân, gây bức xúc trong dư luận. Trước thực trạng này, cấp ủy nhiều địa phương đã xác định giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm tập trung chỉ đạo nhưng do nhiều nguyên nhân, kết quả thực hiện chưa đạt được như mong muốn. Từ kiến nghị của cán bộ, đảng viên, nhân dân và để có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, tháng 4 vừa qua, tất cả các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh ủy dành 8 ngày về tận thôn, hộ gia đình nắm bắt tình hình thực tế để bàn cách tháo gỡ.
Khảo sát tại thôn Đông Hương, xã Nham Sơn (Yên Dũng), đồng chí Lại Thanh Sơn, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh đã gặp gỡ với nhiều người dân. Trò chuyện với bà Thân Thị Thà, xóm Trạc Đình, bà cho rằng: Đường làng ngõ xóm, gia đình có sạch hay không là do ý thức của mỗi người. Đơn cử, trong xóm có nhiều hộ nuôi hàng chục con lợn, nếu không có hệ thống xử lý chất thải biogas thì không chỉ gia đình mình bị ảnh hưởng mà cả xóm phải chịu mùi hôi thối. Tuy nhiên, chúng tôi cũng mong muốn địa phương có bãi rác tập trung, nhiều khi bà con không biết đổ rác ở đâu và để sạch nhà mình, nhiều người không ngần ngại đem rác đổ ra đường, xuống ao, hồ, kênh mương. Trên cơ sở nắm bắt thực tế, tại Hội nghị BTV Tỉnh ủy thường kỳ tổ chức ngày 26-4-2017, sau khi nghe Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh báo cáo thực trạng và đề xuất nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế, chính sách giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn, BTV Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 43 - KL/TU về một số chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn. Kết luận được phổ biến đến chi bộ đã nhanh chóng nhận được sự đồng thuận cao trong cấp ủy, chính quyền và nhân dân.
Để chỉ đạo, triển khai có hiệu quả, BTV Tỉnh ủy phát động chiến dịch cao điểm 100 ngày vệ sinh môi trường (từ ngày 1-6 đến 30-8). Kết quả, toàn tỉnh tổ chức 1.384 buổi ra quân với sự tham gia của hơn 470 nghìn người; quét dọn, thu gom gần 19 nghìn m3 rác ở nơi công cộng; xử lý 186 điểm tồn lưu rác với khối lượng hơn một nghìn m3. Đáng chú ý, các huyện, TP đã quy hoạch, bố trí quỹ đất xây dựng 602 điểm thu gom, tập kết rác tại các xã; thành lập gần 1.200 tổ, đội vệ sinh môi trường. Rõ ràng, sự chỉ đạo sát sao, thường xuyên, cụ thể trước hết là của các đồng chí Ủy viên BTV Tỉnh ủy, sự vào cuộc tích cực của các cấp ủy, chính quyền và mỗi người dân, môi trường trên địa bàn tỉnh đã có chuyển biến; nhiều "điểm nóng” về rác thải đã được xử lý. Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh hình thành nhiều tuyến đường hoa ven đường (khoảng 70 km) do hội viên các đoàn thể như phụ nữ, đoàn thanh niên phối hợp thực hiện, góp phần làm cho cảnh quan nông thôn thêm sạch đẹp.
Tập trung khắc phục vi phạm về đất đai
Tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2016, BTV Huyện ủy Hiệp Hòa nhận thấy có một số hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục ngay. Qua phân tích, có hai vấn đề mấu chốt được BTV Huyện ủy chỉ ra là: Tỷ lệ trưởng, phó thôn là đảng viên tính đến thời điểm đầu nhiệm kỳ mới đạt 47,4% (thấp gần nhất tỉnh) và công tác quản lý đất đai bị buông lỏng trong nhiều năm dẫn đến những hệ lụy lớn.
Đội ngũ trưởng, phó thôn là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở, nếu chưa là đảng viên, trình độ lý luận hạn chế sẽ dẫn đến việc nhận thức và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng kém hiệu quả, làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng nhất là ở các chi bộ nông nghiệp, thậm chí một số nơi có sự "vênh” nhau giữa bí thư chi bộ và trưởng thôn. Để sớm khắc phục, tháng 12-2016 BTV Huyện ủy thành lập 9 tổ công tác, mỗi tổ do một đồng chí Ủy viên BTV làm tổ trưởng trực tiếp chỉ đạo các xã, đồng thời tham gia ý kiến vào quy hoạch giới thiệu nhân sự cấp ủy ở tất cả 229 thôn, đề ra mục tiêu trong tháng 4-2017 các thôn, tổ dân phố tổ chức xong đại hội chi bộ. Kết quả, sau đại hội chi bộ dưới cơ sở và bầu cử trưởng, phó thôn, tỷ lệ trưởng, phó thôn là đảng viên đạt hơn 70%, hoàn thành mục tiêu đề ra.
Đồng chí Nguyễn Thị Hoa, Bí thư Huyện ủy cho biết: Kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo năm 2016, BTV Huyện ủy xác định 148 nội dung công việc còn hạn chế, nổi lên là tình trạng buông lỏng trong quản lý dẫn đến nhiều vi phạm về đất đai. Quyết tâm khắc phục, ngày 10-1-2017, BTV Huyện ủy tổ chức cho các đồng chí bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND xã, thị trấn ký cam kết những nội dung phải thực hiện trong năm 2017, hằng tháng giao ban để đánh giá từng nội dung; chỉ đạo rà soát đến từng diện tích, vị trí, thửa đất có vi phạm để phân kỳ khắc phục. Chỗ nào phù hợp với quy hoạch thì giao đấu thầu, đấu giá. Đối với những vi phạm cũ, BTV Huyện ủy ra Nghị quyết số 162 năm 2017 thay thế Nghị quyết số 138 năm 2011, trong đó có nhiều điểm mới, cụ thể hơn như: Chỉ rõ để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai là do một số cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý nhà nước; việc kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết; công tác quản lý đất công ích còn yếu kém.
Giải pháp được xác định đó là nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền; 100% các xã thống kê diện tích đến thửa, kiên quyết không giao cho thôn quản lý đất công ích, toàn bộ diện tích này UBND các xã, thị trấn phải trực tiếp ký hợp đồng cho thuê theo quy định. Từ quyết tâm đó, công tác quản lý đất đai trên địa bàn huyện cơ bản đi vào nền nếp, vi phạm cũ được phân loại, xử lý, không phát sinh vi phạm mới.
Cấp ủy định kỳ gặp gỡ, đối thoại với nhân dân
Tăng cường gặp gỡ, đối thoại của người đứng đầu cấp ủy với cán bộ, đảng viên, nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm được nhiều địa phương lựa chọn. Tại Tân Yên, qua tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, BTV Huyện ủy đề ra nhiều quyết sách sát với tình hình thực tế địa phương. Điển hình, xác định kinh tế trang trại có nhiều đóng góp lớn cho tăng trưởng của ngành nông nghiệp, các đồng chí lãnh đạo huyện đã tổ chức đối thoại với các chủ trang trại. Trên cơ sở các ý kiến đóng góp, Huyện ủy ra Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế vườn đồi và cây ăn quả; chỉ đạo UBND xây dựng cơ chế kích cầu sản xuất trình HĐND huyện thông qua. Hay ở xã nào có vấn đề bức xúc, nổi cộm, người đứng đầu cấp ủy tiếp xúc với toàn thể đảng viên xã đó. Tinh thần chung là Bí thư Huyện ủy đi sâu chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế; Chủ tịch UBND huyện chú ý giải quyết những điểm nóng, tiềm ẩn yếu tố phức tạp.
Với mục tiêu hướng về cơ sở, BTV Huyện ủy Lục Nam xây dựng, thực hiện Kế hoạch số 56 ngày 15-3-2017 về tiếp xúc, đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân. Theo đồng chí Thân Văn Dàn, Bí thư Huyện ủy, qua tiếp xúc, đối thoại với nhân dân giúp cấp ủy các cấp tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, coi đây là kênh thông tin quan trọng để kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh. Thực hiện kế hoạch này, 9 tháng năm 2017, đồng chí Bí thư Huyện ủy và Chủ tịch UBND huyện tổ chức 5 cuộc tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, chủ trang trại, hợp tác xã, chủ mô hình sản xuất nông nghiệp cho hiệu quả kinh tế cao trên địa bàn.
Tại huyện Việt Yên, liên quan đến một số hộ dân xã Hoàng Ninh và Hồng Thái chưa bàn giao mặt bằng triển khai Dự án xây dựng Khu đô thị Đình Trám - Sen Hồ, trực tiếp đồng chí Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND huyện nhiều lần làm việc với cấp ủy, chính quyền, gặp gỡ, đối thoại với các hộ dân để giải đáp các kiến nghị liên quan đến dự án; chỉ đạo tổ chức đo đạc kiểm đếm, kê khai lập hồ sơ thu hồi đất, thành lập Tổ công tác tuyên truyền, vận động đến từng hộ. Bằng cách làm đó, đến đầu tháng 10-2017, UBND huyện đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng 7 đợt với tổng diện tích 18,8 ha của 305 lượt hộ gia đình, cá nhân, tổng kinh phí bồi thường hỗ trợ 39,983 tỷ đồng.
Rõ ràng, qua thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, nhiều vấn đề đặt ra trong thực tiễn đã được kịp thời tháo gỡ. Dù rằng ở đâu đó còn những việc giữa đăng ký và chỉ đạo chưa thật đúng nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm song việc rút ra bài học kinh nghiệm sẽ giúp các cấp ủy có giải pháp kịp thời, hiệu quả hơn trong đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay.
"Qua thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, nhiều vấn đề đặt ra trong thực tiễn đã được kịp thời tháo gỡ. Do vậy, việc rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tế sẽ giúp các cấp ủy có những giải pháp kịp thời, hiệu quả hơn trong đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay”.
KỲ III: KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT
Từ chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, kinh nghiệm rút ra qua thực tiễn đó là cấp ủy, người đứng đầu cân nhắc, lựa chọn đăng ký những việc có tính khả thi cao. Quá trình thực hiện nêu cao vai trò gương mẫu, trách nhiệm và thường xuyên kiểm tra, giám sát để phát huy ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm hay vấn đề mới phát sinh.
Rõ việc, rõ chủ trương
Qua tổng hợp, đánh giá, hầu hết nhiệm vụ BTV cấp ủy cấp huyện đăng ký chỉ đạo, thực hiện hằng năm đều được triển khai tích cực và nhìn chung đạt kết quả tốt. Đến thời điểm này, nhiều nhiệm vụ trọng tâm năm 2017 đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Kinh nghiệm rút ra đó là các nhiệm vụ đăng ký phải bảo đảm rõ việc, rõ chủ trương, đúng với tính chất là nhiệm vụ trọng tâm.
Đơn cử như ở Tân Yên, việc khắc phục hạn chế, yếu kém năm 2016 là một trong những nội dung của nhiệm vụ thứ hai BTV Huyện ủy đăng ký với BTV Tỉnh ủy. Xác định đây là nhiệm vụ có tính tổng hợp cao nên ngay sau kiểm điểm, Huyện ủy chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở xây dựng, triển khai kế hoạch khắc phục cụ thể gắn với xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh năm 2017. Trực tiếp Thường trực Huyện ủy gợi ý 17 đảng bộ cơ sở hơn 30 nội dung còn yếu kém. Phân công các đồng chí Ủy viên BTV phụ trách xã thường xuyên chỉ đạo, định kỳ báo cáo tiến độ khắc phục, là cơ sở để xem xét, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên dịp cuối năm.
Hay như huyện Việt Yên, để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ thứ 9 là "Đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó tập trung cao đổi mới phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công, chức, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận "một cửa” theo cơ chế liên thông, từng bước liên thông điện tử”, giải pháp Huyện ủy, UBND huyện chỉ đạo là thành lập các tổ kiểm tra liên ngành, mỗi tuần kiểm tra đột xuất tại 5-6 xã. Với phương châm "phê bình rõ địa chỉ”, 100% vi phạm liên quan đến văn hóa công sở được chỉ rõ tên tuổi, danh tính, chức vụ. Ngoài thẳng thắn phê bình nhắc nhở, tổ kiểm tra đề nghị Chủ tịch UBND các xã có biện pháp xử lý nghiêm. Theo đồng chí Lê Ô Pích, Chủ tịch UBND huyện: "Công việc huyện tập trung chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện có thực sự đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc phần nhiều vào cán bộ ở cơ sở. Do vậy, qua kiểm tra, ngoài chấn chỉnh lề lối, tác phong còn góp phần giáo dục, nâng cao trách nhiệm phục vụ của đội ngũ này”.
Đặc biệt, hầu hết các địa phương đều thực hiện chủ trương giao chỉ tiêu thi đua hoặc yêu cầu các bộ phận trực thuộc (phòng, ban, cơ quan, đơn vị liên quan) cụ thể hoá thành các phần việc cụ thể trong nhiệm vụ trọng tâm đó và gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Mục đích là để việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chặt chẽ, đồng bộ, góp phần tạo sức lan tỏa và hiệu ứng tích cực từ huyện đến cơ sở theo phương châm: Cấp xã căn cứ nhiệm vụ của cấp huyện, cấp thôn căn cứ nhiệm vụ của cấp xã để kịp thời cụ thể hóa. Như vậy, ngoài 10 nhiệm vụ BTV Tỉnh ủy xác nhận, hằng năm mỗi địa phương còn có hàng trăm nhiệm vụ trọng tâm khác do cấp cơ sở đăng ký triển khai thực hiện. Việc lựa chọn, triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đã trở thành nhiệm vụ của cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở, tác động tích cực đến mọi lĩnh vực công tác xây dựng Đảng, phát triển KT-XH, bảo đảm an ninh, quốc phòng, thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm ở nhiều địa phương cho thấy, để nhiệm vụ trọng tâm đạt kết quả cao, nhiệm vụ được lựa chọn phải thực sự là những vấn đề nổi cộm đang đặt ra trên thực tế, đòi hỏi cần có sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, người đứng đầu. Ngay như việc BTV Huyện ủy Hiệp Hòa đưa mục tiêu nâng tỷ lệ trưởng thôn là đảng viên vào nội dung đăng ký là bởi đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ huyện (2015- 2020), tỷ lệ này đạt thấp gần nhất tỉnh (47,4%). Tại Yên Dũng, vấn đề "nóng” nhất là những tồn tại kéo dài khiến Dự án đầu tư xây dựng sân golf và dịch vụ huyện chưa thể hoàn thành. Để giải quyết dứt điểm, BTV Huyện ủy và trực tiếp đồng chí Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện đăng ký nội dung này là nhiệm vụ trọng tâm năm 2017. Qua thực hiện, tháng 8 vừa qua, sân golf chính thức đưa vào sử dụng, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch theo tinh thần Nghị quyết của Huyện ủy.
Khó khăn và đề xuất
Sau 4 năm chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, bên cạnh kết quả và thuận lợi rõ nét vẫn còn không ít vấn đề liên quan đặt ra từ thực tiễn. Điển hình là không ít nhiệm vụ dù được xác nhận song chủ yếu mang tính định tính. Đơn cử như các nhiệm vụ: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ”; "Tiếp tục cụ thể hóa và triển khai có hiệu quả các Nghị quyết của Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy về công tác xây dựng Đảng”; "Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện tốt Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị và tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII)”, "Thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát”... Với những nhiệm vụ như vậy thì việc đánh giá đúng mức được kết quả thực hiện là rất... khó khả thi. Đó còn chưa nói, về thực chất, những nhiệm vụ trên là nhiệm vụ thường xuyên, đương nhiên cấp ủy phải chỉ đạo, thực hiện.
Cũng qua tìm hiểu ở nhiều địa phương, do chưa đánh giá đúng bức tranh tổng thể tình hình địa phương nên có những nhiệm vụ cấp ủy xác định khá dàn trải, thậm chí rập khuôn, đăng ký cho xong. Ví như chỉ nhìn vào nhiệm vụ của một cấp ủy là: "Tiếp tục quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020; thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch của BTV Huyện ủy về thực hiện nghị quyết, chỉ thị, đề án, kết luận của Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy” cũng có thể hình dung để triển khai được cần rất nhiều đầu mục khác nhau. Ngoài ra đây là nhiệm vụ xuyên suốt trong cả nhiệm kỳ. Do đó, trước khi đăng ký, tập thể cấp ủy quan tâm khu biệt, thảo luận kỹ lưỡng, lựa chọn rõ vấn đề đang cần tập trung ở địa phương để xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm thì hiệu quả sẽ rõ nét hơn.
Một đề xuất khác, cũng là kinh nghiệm từ thực tế đó là trong quá trình triển khai nhiệm vụ trọng tâm, bên cạnh làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ, các cấp ủy thường xuyên kiểm tra, giám sát, kiểm điểm, đánh giá kết quả, tiến độ trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp giải quyết phù hợp giúp cơ sở thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình. Thậm chí nếu có vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn có thể điều chỉnh chỉ tiêu hoặc bổ sung nhiệm vụ mới. Cùng đó, chú trọng công tác biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những địa phương, đơn vị có cách làm sáng tạo, hiệu quả, kịp thời phê bình những đơn vị làm chiếu lệ, xong lần, hiệu quả đạt thấp.
Từ kết quả và kinh nghiệm trên cho thấy, việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm theo chỉ đạo của BTV Tỉnh ủy là một chủ trương đúng đắn, kịp thời và bám sát yêu cầu thực tiễn của địa phương. Nhờ xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm gắn với trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, nhiều hạn chế, tồn tại kéo dài ở cơ sở đã được khắc phục, giải quyết. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng cũng từ đó nâng lên. Với định hướng của BTV Tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo và đổi mới việc đăng ký thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trong những năm tiếp theo, có thể tin tưởng đó sẽ là động lực mạnh mẽ để các cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đề ra.
"CÁN BỘ LÀ GỐC CỦA MỌI CÔNG VIỆC”
Giải A, năm 2017
Tác giả: Lê Hồng Nhung
Thể loại: Phóng sự phát thanh
S |
inh thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói " Cán bộ là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” . Câu nói này còn nguyên giá trị và dược vận dụng hiệu quả trong thực tiễn giải quyết các công việc khó tại tỉnh Bắc Giang. Để cụ thể hóa nội dung này, tỉnh đã ban hành quyết định 387 : Quy định tiêu chí, đánh giá xếp loại trách nhiệm người đứng đầu và quyết định 1158 của Ban thường vụ tỉnh ủy về ban hành quy chế tiếp túc đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với nhân dân. Bằng cách làm này Tỉnh Bắc Giang đang từng bước xác định rõ trách nhiệm của đội ngũ cán bộ để lắng nghe nhân dân và giải quyết các công việc phục vụ lợi ích của nhân dân. Bắt đầu từ hôm nay chuyên mục "Nghị quyết và cuộc sống” phóng viên Hồng Nhung có phóng sự hai kỳ với tựa đề " Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Còn bây giờ là kỳ 1 của phóng sự với nhan đề :”Xác định rõ trách nhiệm của cán bộ”, mời quý thính giả cùng nghe.
LỤC NAM: XÁC ĐỊNH RÕ TRÁCH NHIỆM CÁN BỘ.
Đánh giá chất lượng đảng viên và đánh giá tránh nhiệm người đứng đầu năm 2016, đồng chí Lưu Văn Quảng chủ tịch UBND xã Tiên Hưng huyện Lục Nam và đồng chí Nguyễn Duy Quảng Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện được xếp ở mức hoàn thành nhiệm vụ. Lý do cũng bởi phòng Tài nguyên và môi trường huyện xảy ra vụ trộm cắp, làm thiệt hại tài sản của nhà nước lên tới hơn 100 triệu đồng. Mặc dù số tiền đã được hoàn trả đủ nhưng khi quy trách nhiệm người đứng đầu đồng chí trưởng phòng không thể không bị hạ một bậc thi đua.
Tại xã Tiên Hưng, Công ty TNHH Hoàng Ninh xin lấp mặt bằng, kinh doanh bến bãi tại địa phương. Khi các thủ tục đang chờ phê duyệt, công ty đã tự ý san lấp mặt bằng. Sự việc này khiến đồng chí Chủ UBND xã bị liên đới trách nhiệm, UBND huyện gửi công văn phê bình về công tác quản lý đất đai, san lấp mặt bằng trái phép. Tiếp đó đồng chí chủ tịch UBND xã bị đình chỉ công việc 15 ngày để giải quyết sai phạm này. Đây là bài học mà ông Quảng không bao giờ quên.
Thực hiện quyết định 387 của UBND tỉnh Bắc giang về Quy định tiêu chí đánh giá xếp loại trách nhiệm người đứng đầu, các cấp chính quyền trên địa bàn huyện Lục Nam cũng ban hành quyết định số 35, quy định rõ nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ trọng tâm cho người đứng đầu, chính quyền các cấp. Theo đó ngoài 5 nhiệm vụ thường xuyên như chấp hành nghiêm đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, ban hành văn bản đảm bảo tính hợp hiến,hợp pháp, quản lý sử dụng cán bộ, công chức, viên chức hiệu quả, thực hiện tốt cải cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ trong cơ quan… thì phần quan trọng là những nhiệm vụ riêng do người đứng đầu lựa chọn đăng ký từ 3 đến 5 nhiệm vụ. Những nhiệm vụ này phải được lãnh dạo huyện xem xét và chấp thuận. Trường hợp cần thiết lãnh đạo huyện có thể giao nhiệm vụ trọng tâm cho người đứng đầu ở cơ sở. Cách làm này vô tình tạo áp lực khiến người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải xác định rõ trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Ông Thân Văn Dàn – Bí thư huyện ủy Lục Nam cho biết:
Cũng theo ông Thân Văn Dàn, từ khi ban hành Quy định đánh giá người đứng đầu, việc giải quyết các công việc thực sự hiệu quả hơn. Nếu như trước kia người đứng đầu ít sát sao cơ sở thì nay bất cứ việc gì họ cũng đi thị sát tận nơi, nắm bắt tận hộ và nhờ vậy họ sẽ tìm ra cách giải quyết ổn thỏa nhất. Đơn cử năm nay Tỉnh Bắc Giang giao cho huyện Lục Nam giải phóng hơn 400 hec ta đất để xây dựng hai cụm công nghiệp và một nhà máy nhiệt điện An Khánh thuộc địa phận xã Vũ Xá. Đây không phải việc dễ dàng, tuy nhiên do đồng chí Bí thư huyện ủy và Chủ tịch UBND huyện sớm xác định rõ nhiệm vụ nên đã dành thời gian, tâm sức họp bàn cùng những người đứng đầu tại cơ sở, lắng nghe tâm tư, tìm hiểu nguyện vọng nhân dân, tìm phương án vận động hợp lý nên đến hết quý 3, các công việc tỉnh giao đã hoàn thành. Đánh giá về việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của người đứng đầu, ông Nguyên Văn Linh – Phó bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh BG nói.
Không chỉ hoàn thành nhiệm vụ tỉnh giao, cái thuận mà huyện Lục Nam đang có được đó là sự ủng hộ của hàng nghìn hộ dân, họ tin tưởng vào người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và hy vọng việc xây dựng các khu, cụm công nghiệp sẽ góp phần giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống. Ông Nguyễn Văn Bình – Người dân thôn Vũ Xá huyện Lục Nam bày tỏ.
Quyết định số 35 của UBND huyện Lục Nam nhằm cụ thể hóa quyết định số 387 của UBND tỉnh Bắc Giang đã thực sự thổi luồng sinh khí mới, làm thay đổi căn bản trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành công việc của từng cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp. Ngay sau khi ban hành quyết định, việc ký cam kết đã cho thấy quyết tâm cao của các đồng chí lãnh đạo trong xác định rõ trách nhiệm của bản thân với Đảng, với nhân dân. Từ đó, việc khó trước hay gây bức xúc dư luận như tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng hay chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi đã được giải quyết phù hợp với mong muốn của nhân dân. Tình trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người không còn. Việc thu hồi đất của hơn 4000 hộ dân xây dựng đường tỉnh 293 đã hoàn thành đúng tiến độ. Chất lượng cuộc sống của người dân từng bước cải thiện và nâng cao. Đây là thành quả chung trong nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Lục Nam, tuy nhiên để có được thành quả đó có phần lớn công sức của những người đứng đầu cấp ủy, chính quyền.
Việc thực hiện theo quy định tiêu chí đánh giá, xếp loại trách nhiệm người đứng đầu được kỳ vọng như một bước đột phá mới trong công tác cán bộ ở tỉnh Băc Giang. Quyết định này cùng với giải pháp thực hiện quy chế " Tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cáp với nhân dân " sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh Bắc Giang có tinh thần trách nhiệm, gần dân, sát dân lắng nghe dân để đưa Băc Giang vững bước trên con đường phát triển . Mời quý vị và các bạn tiếp tục nghe kỳ 2 của phóng sự với nhan đề” " CÁN BỘ LẮNG NGHE DÂN” trong chuyên mục này tuần sau.
CÁN BỘ LẮNG NGHE DÂN.
Thưa quý vị thính giả! Gần dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân là cách cán bộ tỉnh Bắc Giang đang thực hiện thông qua quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với nhân dân. Cách làm này đã giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề bức xúc của người dân, tạo niềm tin của nhân đân đối với Đảng, đối với chính quyền đồng thời đó cũng là cơ hội để đội ngũ cán bộ tự rèn luyện bản thân, nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị vững vàng, giải quyết thấu đáo các công việc từ cơ sở. Mời quý thính giả tiếp tục nghe kỳ hai của phóng sự " Cán bộ là cái gốc của mọi công việc: với nhan đề " Cán bộ lắng nghe dân”.
Việc quy hoạch và xây dựng bãi rác thải tập trung tại thôn Vặt Phú 2, xã Tân Hoa huyện Lục Ngạn đã có lúc rơi vào bế tắc bởi người dân không đồng thuận. Đoàn xe của cán bộ khảo sát quy hoạch xây dựng bị người dân bản địa thu giữ, nhất quyết phản đối không cho xây dựng bãi rác. Trong khi đó thực trạng rác đổ khắp nơi, rác gây ô nhiễm môi trường, rác gây bức xúc trong các khu dân cư… khiến cho việc tập kết rác thải tập trung để xử lý trở thành nhiệm vụ cấp thiết đặt ra đối với chính quyền huyện Lục Ngạn. Để giải quyết vấn đề này, đồng chí chủ tịch UBND huyện đã trực tiếp tiếp xúc với người dân để tuyên truyền, giải thích và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân. Sau 4 cuộc tiếp xúc, đối thoại đến nay bức xúc của người dân đã dịu hẳn và đồng thuận để huyện xây dựng lò đốt rác tại thôn Vặt Phú. Ông Nguyễn Thanh Bình – Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn cho biết
Tại TPBG. Đường 295B, đoạn từ Xương Giang, TPBG đi thị trấn Vôi huyện Lạng Giang tổn tại một vấn đề rất nhức nhối đó là đường không có vỉa hè, người dân buôn bán ngay dưới lòng đường. TPBG đã có chủ trương dẹp vỉa hè để mở rộng hành lang đúng tiêu chuẩn từ khoảng 20 năm về trước. Tuy nhiên do nguồn gốc sử dụng đất quá phức tạp nên tình trạng khiếu kiện xảy ra, người dân nhất quyết không thực hiện theo chủ trương của TPBG. Nhận nhiệm vụ này, đồng chí Mai Sơn – Chủ tịch UBND TPBG đã liên tục tiếp xúc, đối thoại với người dân. Ông Lê Khánh Toàn, một hộ dân kinh doanh tại khu phố Lốp, đường Xương Giang bày tỏ. ( trích đoạn trao đổi của pv với người dân. Họ kể về việc đối thoại của những người đứng đầu đã thuyết phục được nhân dân và việc kinh doanh buôn bán hiện tại đã gọn gàng hơn, không còn lấn chiếm lòng đường như trước… khu phố nhìn sạch đẹp, thoáng, đảm bảo an toàn giao thông hơn so với trước….)
Thông qua tiếp xúc, đối thoại trực tiếp, người dân và chính quyền đã tìm được tiếng nói chung. Kết quả là mặt bằng được bàn giao, tuyến đường Xương Giang hiện dang tiến hành việc thi công, cả thành phố kỳ vọng từ nay đến cuối năm, đoạn đường này sẽ rộng, thoáng, đẹp không còn hiện tượng thắt nút cổ chai và buôn bán ngang nhiên dưới lòng đường ảnh hưởng đến trật tự đô thị và mĩ quan thành phố.
Người đứng đầu là người quyết định các công việc nên thông qua tiếp xúc, đối thoại với nhân dân họ có đầy đủ thông tin và hiểu vấn đề đúng bản chất. Chính bởi vậy khi đưa ra một chính sách hay quyết định các công việc, họ sẽ nêu cao tinh thần trách nhiệm, khách quan, công tâm và đây chính là ưu điểm nổi bật của Quy chế tiếp xúc đối thoại của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền với nhân dân tại tỉnh Bắc Giang.
Thực hiện quyết định 1158 của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang ngày 9.7.2015 về Quy chế, tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền với nhân dân, thời gian qua 100% các cấp ủy đảng, chính quyền tại tỉnh Bắc Giang đã ban hành quy chế tiếp xúc, đối thoại tại địa phương mình. Theo đó hàng quý, tháng, năm sẽ tổ chức các đợt tiếp xúc, đối thoại công khai với nhân dân . Tại dây người dân có quyền được nếu ra những kiến nghị, bức xúc về các chính sách và việc thực hiện chính sách trong phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Người đứng đầu có trách nhiệm trả lời và giải quyết các công việc phù hợp với nguyện vọng chính đáng mà người dân đề cập. Có những cuộc tiếp xúc định kỳ nhưng cũng có nhiều cuộc tiếp xúc đối thoại theo chuyên đề mang tính chất thời điểm để giải quyết ngay những vấn đề nóng mà người dân quan tâm. Thống kê đến thời điểm hiện tại đã có hơn 500 cuộc đối thoại, tiếp xúc với nhân dân được người đứng dầu thực hiện ở các cấp. Trên 85% kiến nghị của người dân liên quan đến những vấn đề quản lý dất đai, giải phóng mặt bằng, chế độ chính sách… đã được giải quyết. Theo quan điểm của ông Bùi Văn Hải - Ủy viên TƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Băc Giang, thông qua tiếp xúc dối thoại là một cách để người cán bộ được gần dân hơn.
Khi gần gũi nhân dân người cán bộ sẽ tự tìm thấy cách giải quyết chính xác, hiệu quả nhất các công việc phục vụ lợi ích nhân dân, bởi vậy Quy chế tiếp xúc, đối thoại với nhân dân theo quyết định 1158 của BTV tỉnh ủy sẽ còn tiếp tục duy trì để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ vì dân. Đồng chí Bùi Văn Hải – UVTW Đảng, Bí thư Tỉnh Ủy Băc Giang khẳng định.
Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, khi người cán bộ biết xác định rõ trách nhiệm của mình, biết dựa vào dân, biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc một cách thấu tình dạt lý, hết lòng phục vụ nhân dân sẽ tạo được niềm tin trong nhân dân. Đây cũng là chìa khóa vàng để mở ra cánh cửa giúp Bắc Giang thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề ra và góp sức cùng cả nước hội nhập, phát triển.
TINH GỌN BỘ MÁY – ĐÒI HỎI TỪ THỰC TIỄN
Giả A, năm 2018
Nhóm tác giả: Thanh Hải, Mai Toan, Hoài Thu
Thể loại: Phản ánh
KỲ I - RÕ CHỦ TRƯƠNG, THỰC HIỆN ĐỒNG BỘ
B |
ám sát chủ trương của T.Ư, từ năm 2015, Bắc Giang đã ban hành các chương trình, nghị quyết nhằm từng bước tinh gọn bộ máy. Có thể thấy, sau sắp xếp, bộ máy hành chính của tỉnh đã bớt cồng kềnh, hiệu quả hoạt động được nâng lên.
Nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ
Thống kê của Sở Nội vụ, tính đến cuối năm 2015, toàn tỉnh có 230 xã, phường, thị trấn và gần 2,5 nghìn thôn, bản, khu dân cư; hơn 1,3 nghìn đơn vị sự nghiệp công lập và DN nhà nước thuộc UBND tỉnh quản lý. Nhìn tổng thể, đơn vị hành chính của tỉnh còn cồng kềnh với hàng trăm thôn và xã quy mô nhỏ, đội ngũ cán bộ hoạt động không chuyên trách lớn, nhiều đơn vị sự nghiệp trùng chéo chức năng, nhiệm vụ hoạt động. Báo cáo của Sở Tài chính, chỉ tính riêng chi cho đội ngũ cán bộ không chuyên trách ở xã, thôn (gần 13,4 nghìn người) mỗi năm đã tới hơn 300 tỷ đồng, chiếm hơn 20% tổng chi từ ngân sách. Thu không đủ chi nên năm 2015 cũng như nhiều năm trước, Bắc Giang phải trông vào một phần sự hỗ trợ từ T.Ư.
Xuất phát từ những bất cập trong thực tiễn và bám sát văn bản, hướng dẫn về sắp xếp bộ máy hành chính phù hợp trên cơ sở tuân thủ quy định, bảo đảm hiệu quả hoạt động, Thường trực Tỉnh ủy đã chỉ đạo ban hành các chương trình, nghị quyết, kế hoạch hành động. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có Chương trình hành động số 01- CTr/TU ngày 7-12-2015 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII (nhiệm kỳ 2015 - 2020), trong đó xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm cả giai đoạn là rà soát, sắp xếp lại một số đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp đó, BTV Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 140-NQ/TU 22-9-2016 thông qua Đề án "Sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước tỉnh Bắc Giang (giai đoạn 2016-2020).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành T.Ư (khóa XII) về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” ban hành cuối năm 2017 tiếp tục tạo động lực để tỉnh tập trung hơn nữa việc rà soát và thực hiện lộ trình tinh giản bộ máy. Xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, khó khăn, Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu nắm vững quan điểm chỉ đạo, mục tiêu của Nghị quyết để tổ chức thực hiện đồng bộ, lộ trình phù hợp. Đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động của từng cấp, ngành, địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Cụ thể là tháng 5-2018, BTV Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 47-KH/TU. Tháng 6-2018, UBND tỉnh có Kế hoạch số 112-KH/UBND chỉ rõ mục tiêu thu gọn đầu mối những đơn vị trùng chéo chức năng, nhiệm vụ; sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, thôn, tổ dân phố quy mô nhỏ; ghép các trường cùng cấp học trên địa bàn xã, phường, thị trấn; thực hiện kiêm nhiệm đối với một số chức danh ở cơ sở; giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập; chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần. Giải thể hoặc sáp nhập đơn vị sự nghiệp hoạt động hiệu quả thấp, nếu có khả năng khai thác nguồn thu sẽ chuyển sang tự trang trải kinh phí hoạt động. Tỉnh đề ra mục tiêu đến năm 2021 có 10% đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính chi thường xuyên, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập có nguồn thu từ hoạt động dịch vụ so với giai đoạn 2011-2015.
Gọn đầu mối, giảm cán bộ
Quá trình thực hiện, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đã tập trung tuyên truyền chủ trương lớn của Đảng tới đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, tính từ năm 2015 đến nay, từ 1.304 đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh sau sắp xếp đã giảm 136 đơn vị. Trong đó, ngành giáo dục giảm 49 đơn vị; văn hóa, thể thao, du lịch giảm 6... Tại các cơ quan, đơn vị tùy theo thực tế cũng tiến hành sáp nhập nhằm giảm đầu mối số phòng, ban và cán bộ quản lý. Tất cả các ban, cơ quan khối Đảng đều triển khai tích cực, Đa số đều giảm phòng so với trước. Đơn cử như Văn phòng Tỉnh ủy giảm từ 7 phòng xuống còn 5 phòng; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy giảm từ 7 phòng xuống 4...
Nhiều huyện đã hợp nhất Trưởng Ban Tuyên giáo đồng thời là Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng chính trị, như các huyện Lục Ngạn, Yên Thế; hay Trưởng Ban Dân vận kiêm Chủ tịch Uỷ ban MTTQ, điển hình là các huyện: Sơn Động, Lục Nam, Hiệp Hòa, Yên Thế và TP Bắc Giang. Một số cơ quan đồng chức năng cũng được Chủ tịch UBND tỉnh ban hành quyết định sáp nhập như: Trung tâm Văn hóa - Thể thao, Đài Truyền thanh và Ban quản lý di tích thành Trung tâm Văn hóa, thông tin và thể thao huyện, TP. Hiện huyện Hiệp Hòa đã kiện toàn tổ chức và đi vào hoạt động. Đến nay, toàn tỉnh đã giảm 22 thôn quy mô nhỏ và hơn 300 cán bộ không chuyên trách.
Sở Nông nghiệp và PTNT từng được ví là "siêu sở” vì có nhiều phòng, ban, đơn vị trực thuộc. Nay đơn vị đã rút gọn từ 9 chi cục còn 7. Tại Sở xóa tên 3 phòng là: Pháp chế, Chăn nuôi, Trồng trọt đồng thời ghép nhiệm vụ của các chi cục, phòng chuyên môn vào đơn vị có chức năng, nhiệm vụ tương đồng.
Nhận thấy đội ngũ cán bộ thú y, khuyến nông cơ sở (hơn 450 người) không còn phù hợp trong tình hình mới, tỉnh tập trung sắp xếp lại song vẫn bảo đảm chất lượng công tác phòng, chống dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi. Việc sắp xếp được triển khai theo hướng chấm dứt với những vị trí hợp đồng ngắn hạn, ưu tiên cán bộ có chuyên môn phù hợp vào làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc UBND cấp huyện hiện thiếu biên chế. Tuyển dụng vào làm công chức cấp xã ở các chức danh; bố trí đảm nhiệm các chức danh cán bộ chuyên trách cấp xã. Tỉnh đề ra mục tiêu đến năm 2020 sẽ sắp xếp xong đội ngũ này. Một số địa phương triển khai sớm như huyện Lạng Giang thời điểm này đã hoàn thành xét duyệt hồ sơ chuyển sang công chức xã 24/46 cán bộ khuyến nông, thú y cơ sở và thanh lý một hợp đồng lao động. Các huyện còn lại đang tích cực triển khai.
Kết quả bước đầu
Ông Bùi Ngọc Sơn, Giám đốc Sở Nội vụ nhận xét: Nhìn chung, công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy được thực hiện đúng quy trình, nhận được sự đồng thuận cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần đẩy mạnh thực hiện chủ trương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị; thôn, bản, tổ dân phố, trường học sau sáp nhập thuận lợi hơn trong vận động huy động nguồn lực xây dựng hạ tầng kỹ thuật, triển khai hiệu quả các chương trình, mục tiêu, kế hoạch đề ra.
Điển hình như Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn sau sáp nhập hoạt động của các phòng, ban, chi cục đều thuận lợi, bảo đảm. Kết quả thực hiện nhiệm vụ các năm đều đạt và vượt. Năm 2018, tốc độ tăng trưởng ngành tới hơn 6%, cao nhất từ trước đến nay.
Trở lại thôn Xé, xã Biên Sơn (Lục Ngạn) một năm sau khi ghép từ hai thôn nhỏ là Xé Trong và Xé Ngoài, chúng tôi thấy rõ những đổi thay nơi đây. Ông Nguyễn Đức Xèng, Trưởng thôn hào hứng: "Số hộ tăng nên huy động kinh phí làm đường giao thông, xây dựng các công trình phúc lợi nhanh, thuận tiện. Từ nguồn vốn cấp trên hỗ trợ và kinh phí nhân dân đóng góp đã làm được con đường bê tông mới dài gần 3 km, đi lại và giao thương hàng hóa, đời sống nhân dân ổn định hơn trước”. Tương tự, việc sáp nhập Trường Tiểu học Vân Hà (Việt Yên) số 1 và số 2. Trước đây, chất lượng hai trường thấp nằm tốp cuối của huyện bởi cơ cấu giáo viên nơi thừa, nơi thiếu, nhiều phòng học xuống cấp. Sau sáp nhập, hoạt động tại Trường Tiểu học Vân Hà (Việt Yên) được cơ quan chuyên môn đánh giá có nhiều chuyển biến, chất lượng tăng lên. Nhà trường đã được bố trí đội ngũ bảo đảm đủ cơ cấu, tỷ lệ. Năm 2017, chính quyền địa phương quan tâm bổ sung thêm 6 phòng học, phòng chức năng” - Cô giáo Nguyễn Thị Hiền, Hiệu trưởng cho biết.
KỲ II- DÂN CHỦ, KHÁCH QUAN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
Nhìn từ các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học có thể khẳng định rõ hiệu quả của việc sáp nhập mang lại song tại một số nơi còn nảy sinh bất cập. Để khắc phục, cấp ủy, chính quyền các cấp tại Bắc Giang tiếp tục kiên trì mục tiêu đổi mới, tiến hành sắp xếp ở những nơi đủ điều kiện trên tinh thần dân chủ, thống nhất, bảo đảm quyền lợi cán bộ.
Những vấn đề phát sinh
Sau thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy, bên cạnh kết quả và thuận lợi vẫn còn không ít vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Điển hình như nhiệm vụ sáp nhập trường học. Một vài trường sau sắp xếp, chất lượng giáo dục đi xuống; cán bộ, giáo viên vất vả hơn do khoảng cách hai cơ sở không gần nhau hoặc có trường hợp nửa trường đã đạt chuẩn, nửa còn lại thì chưa, lúng túng khi địa phương xác định danh hiệu cho trường mới sau sáp nhập trong khi T.Ư chưa có văn bản hướng dẫn. Còn ở Trung tâm Ứng dụng khoa học và công nghệ tỉnh (Sở Khoa học và Công nghệ), hiện nay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là kiểm định, thử nghiệm đo lường chất lượng đang bị "đóng băng” do sau sáp nhập giấy phép mới chưa được cấp có thẩm quyền cấp lại.
Nhiều ý kiến cho rằng, cơ chế, chính sách của Nhà nước như: Quy định về việc xác định, phê duyệt vị trí việc làm; định mức viên chức, hợp đồng lao động; danh mục dịch vụ sự nghiệp công; hướng dẫn thực hiện tự chủ của các ngành, lĩnh vực... còn chậm triển khai. Điều này khiến các đơn vị sự nghiệp công lập lúng túng khi thực hiện, ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, nhiệt huyết làm việc của cán bộ, người lao động. Ví như Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh hoạt động từ ngày 1-1-2017 trên cơ sở tổ chức lại 6 đơn vị y tế tuyến tỉnh bao gồm các Trung tâm: Y tế dự phòng, HIV/AIDS; Sức khỏe sinh sản; Mắt; Truyền thông giáo dục sức khỏe; Sốt rét - Nội tiết. Đội ngũ đông nhưng thiếu cán bộ chuyên môn sâu. Để sắp xếp họ vào các vị trí phù hợp đơn vị lại phải cử đi đào tạo thêm, ảnh hưởng đến triển khai các kỹ thuật, dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, khó cạnh tranh với các đơn vị y tế tư nhân.
Cũng qua tìm hiểu ở nhiều địa phương nhận thấy dù có thôn, bản nhỏ nhưng địa hình chia cắt, dân cư sinh sống thưa thớt, đồng bào các dân tộc Kinh, Nùng, Tày, Sán Dìu… sinh sống đan xen; phong tục tập quán, tôn giáo có nhiều khác biệt nên việc ghép thôn không thuận lợi. Một trong những điều kiện để ghép thôn, tổ dân phố là sự đồng thuận của nhân dân nhưng theo lãnh đạo cấp ủy, chính quyền nhiều địa phương thì đây là nội dung khó thực hiện. Theo ông Dương Minh Cường, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Ngọc Châu (Tân Yên) năm 2017, do tuyên truyền không tốt mục tiêu ghép thôn không thực hiện được.
Hướng tới mục tiêu chung
"Tách ra, thêm ghế” thì dễ, nhập vào khó khăn bởi liên quan đến quyền, lợi ích của một số cán bộ là câu chuyện diễn ra phổ biến. Làm thế nào để cắt giảm được những chức danh cán bộ không cần thiết, năng lực yếu kém, bố trí cán bộ phù hợp với vị trí việc làm đòi hỏi người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị, địa phương nghiên cứu kỹ lưỡng mọi phương án với tinh thần quyết tâm, công tâm và minh bạch, bảo đảm quyền lợi cán bộ. Ông Tạ Việt Hùng, Phó Chủ tịch UBND huyện Hiệp Hòa cho rằng, ngoài căn cứ vào hiệu quả làm việc để đánh giá, cần tổ chức thi tuyển công khai, minh bạch; lấy phiếu tín nhiệm, xem xét chất lượng, hiệu quả công việc, chọn được người cán bộ xứng đáng giữ vai trò chủ chốt.
Theo ông Nguyễn Trọng Nam, Phó Giám đốc Sở Nội vụ, qua nắm bắt từ cơ sở, Sở đã tham mưu với tỉnh một số hướng giải quyết, để từng bước khắc phục những bất cập. Đối với cán bộ cấp xã do sắp xếp không bố trí được nếu đủ thời gian công tác có thể vận động nghỉ hưu sớm; người đủ 20 năm công tác có thể nghỉ chờ tuổi về hưu và hỗ trợ đóng bảo hiểm; cán bộ trẻ thì thực hiện rà soát tiêu chuẩn, trình độ, nếu không phù hợp thì nghỉ chế độ một lần. Khi triển khai nhất thể hóa chức danh, tinh giản biên chế ở cấp cơ sở không áp đặt cứng nhắc, cơ học mà phải linh hoạt, mềm dẻo dựa vào thực tế tình hình địa phương và năng lực cán bộ. Quan trọng hơn, khi có chủ trương, cấp ủy, chính quyền cần đẩy mạnh tuyên truyền. "Sở Nội vụ sẽ tổng hợp ý kiến đề xuất từ các địa phương, tham mưu với UBND tỉnh có hình thức hỗ trợ, động viên cán bộ nghỉ sau sắp xếp. Có chính sách ưu tiên hơn đối với các đơn vị, trường học, thôn sau sáp nhập, nhất là hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng” - ông Nam nhấn mạnh.
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan chuyên môn cần tiếp tục rà soát, cơ cấu lại hoặc giải thể khi hoạt động không hiệu quả. Chuyển các đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực có khả năng xã hội hóa cao sang thực hiện cơ chế tự chủ hoặc công ty cổ phần. Sắp xếp, cơ cấu lại chức danh kế toán, y tế học đường tại các trường mầm non. Hiện nay, một số địa phương như: Lạng Giang, Lục Nam, Hiệp Hòa... đã thực hiện kiêm nhiệm chức danh đối với cán bộ thôn, xã. Từ tháng 1-2019, Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐND của HĐND tỉnh có hiệu lực. Theo đó, cấp xã không bố trí quá 17 chức danh, cấp thôn không quá 6 chức danh. Qua đó giảm số lượng cán bộ không chuyên trách tuổi cao, năng lực hạn chế.
Khi tiến hành sáp nhập các xã cần có phương án tận dụng trụ sở cũ, không xây mới để tránh lãng phí nguồn lực; ngành chức năng rà soát kỹ lưỡng, xây dựng phương án bố trí việc làm phù hợp, tinh gọn, hoạt động hiệu quả, tránh chồng chéo, trùng lặp và không bỏ sót; bảo đảm một phòng thực hiện nhiều nhiệm vụ và một nhiệm vụ không giao cho nhiều phòng. Đáng chú ý, sắp xếp, kiện toàn gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17-4-2015 của Bộ Chính trị.
Sắp xếp cần dân chủ, đồng bộ, thống nhất, tránh thực hiện cơ học nhằm giảm bớt nhân lực dư thừa để mỗi người trong hệ thống chính trị làm việc hết mình, đem lại hiệu quả, bảo đảm sự phát triển chung của xã hội.
NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH, XU THẾ TẤT YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Giải A, năm 2018
Nhóm tác giả: Hồng Thơm, Anh Hoàng, Trọng Quân
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
T |
hưa quý vị và các bạn! Bắc Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh Bắc Giang cũng đã quan tâm ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn phát triển. Tuy nhiên nông nghiệp Bắc Giang vẫn chưa tạo được sự đột phá, giá trị kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Vấn đề đặt ra lúc này đó là ngoài việc tái cơ cấu lĩnh vực nông nghiệp, thì giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) gắn với công nghệ thông tin trong sản xuất là việc làm đã và đang được tỉnh Bắc Giang quan tâm thực hiện.
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH BẮC GIANG
Tỉnh Bắc Giang có 129 nghìn ha đất sản xuất nông nghiệp, có trên 150 nghìn ha đất lâm nghiệp, trong đó có gần 120 nghìn ha đất rừng sản xuất. Trong những năm qua, tình hình phát triển nông nghiệp của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu. Nông nghiệp đã đạt được tăng trưởng cao liên tục theo hướng giá trị gia tăng, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng giá trị trồng trọt giảm, chăn nuôi tăng lên. Từ sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa đã chuyển mạnh sang nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung với quy mô lớn, từng bước ƯDCNC vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường nội địa và hướng tới xuất khẩu. Đặc biệt, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản được nâng cấp từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu thâm canh, tăng vụ và giảm nhẹ thiên tai. Do đó đã hình thành được các vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn phục vụ chế biến, xuất khẩu như: Vùng sản xuất vải thiều diện tích 30.000 ha; vùng sản xuất rau 25.000 ha; vùng sản xuất lúa chất lượng 30.000 ha; vùng sản xuất lạc 12.000 ha; vùng chăn nuôi lợn 1,3 triệu con; gia cầm 15 triệu con; vùng trồng gỗ nguyên liệu 82.000 ha… Đáng quan tâm là đã có một số sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu và có thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu như: vải thiều Lục Ngạn, gà đồi Yên Thế, Lúa thơm Yên Dũng, Lạc giống Tân Yên, Rau sạch, Rau an toàn… Tuy nhiên trên thực tế, sản lượng và giá trị thu nhập bình quân hàng năm đạt được trong lĩnh vực này chưa xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh.
Trước thực tế này, từ rất sớm, tỉnh Bắc Giang đã chủ động xây dựng chủ trương, định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp ƯDCNC. Vào thời điểm tháng 8 năm 2016 Ban thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành cả một Nghị quyết về đẩy mạnh ƯDCNC trong sản xuất nông nghiệp, UBND tỉnh Bắc giang cũng đã chủ động ban hành quyết định phê duyệt "Quy hoạch vùng nông nghiệp ƯDCNC tỉnh Bắc Giang đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Mặc dù mới triển khai thực hiện được hơn 1 năm nay, song toàn tỉnh đã dành hơn 67 tỷ đồng để đầu tư cho chương trình sản xuất nông nghiệp ƯDCNC. Vì thế nên chỉ trong thời gian rất ngắn, trên địa bàn tỉnh hình thành 21 mô hình ứng dụng CNC vào sản xuất, bảo quản, chế biến, góp phần tăng năng suất, chất lượng, giá trị, sức cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp ƯDCNC, ngoài việc chủ động triển khai các giải pháp theo tinh thần Nghị quyết 130, tỉnh Bắc Giang còn chủ động lồng ghép các chương trình nhằm góp phần phát huy tối đa hiệu của việc đẩy mạnh ƯDCNC trong sản xuất nông nghiệp, trong đó có chương trình hợp tác xây dựng thành phố thông minh.
Theo chương trình này, ngoài việc xây dựng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao thì việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin thông qua các phần mềm công nghệ thông minh và tiện ích của các nhà mạng cũng đã được quan tâm đẩy mạnh. Điều này càng khẳng định hướng đi đúng trong phát triển nông nghiệp hiện nay.
PV: Ông Hoàng Công Trì, Chủ tịch UBND xã Đại Lâm, huyện Lạng Giang
NÔNG NGHIỆP BẮC GIANG CHỦ ĐỘNG BẮT KỊP XU THẾ
Chỉ với một chiếc điện thoại Smart phone không cần tải phẩn mềm, thông qua Zalo hay facebook bất kỳ khách hàng nào cũng có thể kiểm tra thông tin sản phẩm Mỳ chũ có nguồn gốc xuất xứ từ đâu và ngày sản xuất cũng như hạn sử dụng của sản phẩm… Việc HTX sản xuất kinh doanh, tiêu thụ mỳ gạo chũ Hiền Phước chủ động gắn tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm chính là nhằm khẳng định chất lượng sản phẩm do cơ sở sản xuất ra, đồng thời hạn chế các sản phẩm nhái giả là mỳ chũ trà trộn vào.
PV: Bà Hoàng Thị Thu Hiền, Giám đốc HTX sản xuất Mỳ gạo chũ Hiền Phước
Hợp tác xã sản xuất kinh doanh, tiêu thụ mỳ gạo chũ Hiền Phước hiện có 30 cơ sở là các hộ gia đình xã viên tham gia sản xuất mỳ, trung bình mỗi 1 tháng hợp tác xã cung ứng ra thị trường khoảng 20 đến 30 tấn mỳ. Để sản phẩm ngày càng khẳng định trên thị trường, UBND huyện Lục Ngạn phối hợp với Trung tâm kinh doanh VNPT Bắc Giang hỗ trợ HTX thực hiện gắn tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đối với mỗi hộ xã viên thì đây là việc làm hết sức ý nghĩa, bởi sản phẩm làng nghề truyền thống do người nông dân sản xuất ra ngày càng có cơ hội khẳng định tên tuổi trên thị trường.
PV: Chị Trần Thị Mơ, thành viên HTX sản xuất Mỳ gạo chũ Hiền Phước
Không chỉ sản phẩm mỳ chũ nhiều sản phẩm nông nghiệp khác như: Gà đồi Yên Thế, lợn hữu cơ, bưởi diễn, cam canh, vải thiều Lục Ngạn, rau sach cũng đã được gắn tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Qua đó đã góp phần khẳng định giá trị sản phẩm nông sản, tạo thuận lợi tiêu thụ và khặng định thương hiệu sản phẩm trên thị trường.
Ngoài việc chủ động gắn tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản, để bắt kịp với xu thế phát triển của khoa học công nghệ hiện nay, các đơn vị kinh doanh công nghệ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã chủ động tiếp cận các công nghệ thông minh để ứng dụng vào trong sản xuất nông nghiệp. Với các phần mềm quản lý hiện đại như: hệ thống giám sát môi trường, theo dõi dự báo thời tiết, giám sát đồng ruộng, quản lý quy trình sản xuất bằng một loạt các hệ thống như nhật ký điện tử, quy trình VietGap, GlobalGap, hệ thống tưới và bón phân tự động… Từ đó nâng cao khả năng tối ưu hóa sản xuất, tiết kiệm nhiều sức người, nhân công, điện nước, phân bón, giảm kinh phí đầu vào cho sản xuất.
TẬP TRUNG NHÂN RỘNG MÔ HÌNH NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH
Thực tiễn tại một số nước có nền nông nghiệp hiện đại, việc ƯDCNC vào sản xuất nông nghiệp dựa trên xu thế phát triển của khoa học công nghệ, nhất là tin học hóa một số quy trình trong sản xuất bằng hệ thống nhật ký điện tử đã mang lại sự thuận tiện trong sản xuất, cũng như hỗ trợ người nông dân tiếp cận với các quy trình sản xuất theo các tiêu chuẩn. Qua đó tạo sự đột phá về năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm. Tại tỉnh Bắc Giang đã có một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao sản xuất bằng nhà màng, nhà lưới có ứng dụng tưới nhỏ giọt, hoặc tưới phun sương cũng đã góp phần tiết kiệm chi phí đầu từ, nâng cao giá trị sản phẩm. Tuy nhiên hàm lượng công nghệ được ứng dụng sản xuất tại các mô hình này vẫn còn thấp. Cụ thể tại mô hình trồng dưa lưới của HTX Đồng Tâm 3, mặc dù đã đầu tư nhà màng hiện đại có hệ thống tưới nhỏ giọt, hệ thống quạt thông gió. Tuy nhiên để sản phẩm dưa lưới đạt hiệu quả cao, thì vẫn cần có thêm một số công nghệ khác.
PV: Ông Hoàng Văn Nghiệp, Giám đốc HTX Đồng Tâm 3, xã Thường Thắng, huyện Hiệp Hòa
Còn đối với HTX nông nghiệp Phương Nam, xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang, ngoài nhà màng và hệ thống tưới phun sương để trồng hoa lyly, hoa hướng dương thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào nâng cao hiệu quả quản lý theo hệ thống nhật ký điện tử, hay tưới tự động bằng điện thoại Smart phonne cũng được HTX quan tâm hướng đến.
PV: Ông Hoàng Văn Phượng, GĐ HTX Nông nghiệp Phương Nam, xã Tân Mỹ, TPBG
Với 30 ha tập trung chuyên sản xuất rau sạch cùng với một số mô hình nhà lưới, nhà màng, việc đưa công nghệ thông tin vào ứng dụng sản xuất, nhất là phần mền quản lý và các hệ thống dự báo thời tiết, hệ thống tưới tự động để giảm thiểu nhân công và chi phí đầu tư là việc làm mà HTX sản xuất rau sạch Yên Dũng quan tâm và dự kiến sẽ đầu tư trong thời gian tới.
PV: Ông Lưu Xuân Kiên, HTX rau sạch Yên Dũng, xã Tiến Dũng, huyện Yên Dũng
Cùng với sự chủ động của các HTX, doanh nghiệp trong việc đưa công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp, hiện cơ quan chuyên môn cũng tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp để khuyến cáo người nông dân, các HTX, doanh nghiệp chủ động đưa các phần mềm, công nghệ vào ứng dụng trong sản xuất.
PV: Ông Nguyễn Văn Doanh, PGĐ Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang
Thưa quý vị và các bạn! Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng cuộc cách mang 4.0 là một trong những giải pháp được cơ quan chuyên môn triển khai nhằm thực hiện có hiệu quả nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Còn với người nông dân cũng đã sẵn sàng đón nhận những công nghệ tiên tiến và hiện đại ứng dụng vào sản xuất. Bên cạnh đó, nghiệp kinh doanh công nghệ trên địa bàn tỉnh cũng đã mạnh dạn tiếp nhận và chủ động chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại cho người nông dân. Mục tiêu cuối cùng là tạo sự đột phá và nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh và chắc chắn thời gian tới nông nghiệp Bắc Giang sẽ có sự chuyển mình mạnh mẽ.
LAN TỎA TRÁCH NHIỆM NÊU GƯƠNG:
CÁCH LÀM CỦA BẮC GIANG
Giải A, năm 2019
Nhóm tác giả: Thu Hà, Bích Ngọc,
Hữu Tuấn, Ngọc Linh
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
N |
gay từ giây phút này, đứng trong hàng ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, trách nhiệm nêu gương bắt đầu đặt trên vai đảng viên trẻ này. Sức mạnh của Đảng nằm ở mỗi đảng viên; còn sức mạnh của đảng viên là khả năng nêu gương, làm mực thước cho quần chúng. Đi kèm niềm vinh dự nhận quyết định kết nạp đảng là lời nhắc nhở từ cuốn sổ tay nhỏ bé. Lời nhắc nhở: Hành trình cống hiến của người đảng viên bắt đầu từ sự nêu gương.
Lời dặn của Bác: "Một tấm gương sống còn hơn một trăm bài diễn thuyết tuyên truyền”; "Người đảng viên – dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp – ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng… Mà muốn quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo”.
Thực tiễn đã chứng minh từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã có rất nhiều cán bộ đảng viên tiên phong, gương mẫu trong hoạt động cách mạng. Những cái tên như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai… đã đi vào lịch sử như những tấm gương chói lọi của đạo đức cách mạng, vì Đảng, vì nước quên thân… Trong thời kỳ đổi mới, đã có không ít cán bộ đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và đã tạo ra được nhiều giá trị mới, thành tựu mới... để lại những hình ảnh đẹp trong lòng quần chúng nhân dân.
PV: Đ/c Nguyễn Văn Liêm, Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Thế nhưng, vẫn còn đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu trên tất cả các mặt. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đúc kết và chỉ ra rằng: "Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, nói không đi đôi với làm, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở,… thậm chí nhiều cán bộ đảng viên đã bị xử lý kỷ luật”.
30 năm tù, đó là cái giá phải trả của 3 bị cáo, nguyên là cán bộ của phòng LĐ TB&XH, chủ nhiệm UB kiểm tra huyện Yên Dũng khi bị kết tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, một vụ án đau xót gây chấn động tại Bắc Giang một thời gian dài, bài học về công tác cán bộ, về trách nhiệm nêu gương của người cán bộ, đảng viên.
Căn nhà này vừa được gia đình ông Dương Ngọc Điền đầu tư hàng trăm triệu đồng để cải tạo lại sau khi chấp hành chủ trương của UBND xã Yên Lư huyện Yên Dũng là lùi trả hành lang giao thông. Nhà vừa xây xong chưa đầy 1 năm thì gia đình ông lại nhận được thông báo mới của UBND xã là phải tháo dỡ toàn bộ công trình mà không có bất kỳ 1 khoảng bồi thường nào. Là một công dân, ông Điền đã nêu gương trong việc tôn trọng và thực hiện đúng chủ trương ban đầu của chính quyền xã. Còn những cán bộ lãnh đạo ở xã Yên Lư lại có những việc làm nêu gương xấu trong việc thiếu tôn trọng nhân dân khi ban hành 1 Quyết định thu hồi mà không quan tâm đến cuộc sống của người dân.
PV: Ông Dương Ngọc Điền, thôn An Thái, xã Yên Lư, huyện Yên Dũng
Một bộ phận cán bộ, đảng viên vô trách nhiệm với dân, chẳng những không gương mẫu mà còn nêu gương xấu trước quần chúng. Tổn hại không tính được bằng con số vì giá trị bịmấtnhiều nhất là lòngtincủangười dânđối vớiĐảng.
Một chủ tịch UBND xã phải nhảy cầu tự tử vì những sai phạm đặc biệt nghiêm trọng của mình trong quản lý đất đai, đến mức không thể kiểm soát…
Hay mới đây nhất, khi văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy về thực hiện nghiêm qui định thời gian làm việc và qui định không uống rượu bia ban hành còn chưa ráo mực, thì tại xã Quế Nham huyện Tân Yên, 1 đảng viên là công chức Tư pháp hộ tịch tại bộ phận 1 cửa của xã đã vi phạm đúng qui định này:
PV: Đ/c Nguyễn Tiến Đều, Đảng viên Chi bộ Hoàng Văn Thụ, Đảng bộ phường Hoàng Văn Thụ, TPBG
PV: Đ/c Phạm Huy Hoằng, Đảng viên Chị bộ Hoàng Văn Thụ, Đảng bộ phường Hoàng Văn Thụ, TPBG
Theo thống kê, trong 5 năm qua, Bắc Giang có … cán bộ, đảng viên bị thi hành kỷ luật, chính họ là tấm gương phản chiếu,gây mất niềm tin trong nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Không dừng lại ở Bắc Giang, trên cả nước, số đảng viên bị kỷ luật những năm qua cũng lên đến hàng ngàn người, nhiều người trong số đó là người đứng đầu, giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy của Đảng và Chính phủ như: thứ trưởng, bộ trưởng, thậm chí là cả ủy viên bộ chính trị…
Trong bối cảnh ấy, làm sao để lấy lại uy tín, sức mạnh của đảng, làm sao để người dân một lòng đi theo đảng, tin đảng là câu hỏi khó được đặt ra.
Tại Bắc Giang, nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đảng viên, để mỗi đảng viên là một tấm gương sống, lan tỏa ra cộng đồng là cách làm mà Ban Thường vụ Tỉnh ủy lựa chọn. Thông qua việc cụ thể hóa các văn bản, chỉ đạo của Trung ương, các hình thức tuyên truyền, vận động, gắn trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên với cuộc vận động học và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, nhiều tấm gương điển hình đã được phát hiện, trở thành tấm gương sáng để quần chúng học và làm theo.
"Đã nói là làm, làm hết mình để dân thấy, dân theo…” đó là lời mà những người dân xã Nghĩa Hòa huyện Lạng Giang dành để nói về chủ tịch xã của mình, anh Nguyễn Văn Tuấn. Năm 2015, khi được bầu làm chủ tịch UBND xã cũng là lúc xã Nghĩa Hòa bắt tay vào xây dựng nông thôn mới. Xã thì nghèo, chủ trương lại lớn, việc huy động nguồn lực nhiều lúc khiến anh nản lòng. Nhưng với trách nhiệm của một đảng viên, một người đứng đầu, anh Tuấn đã không bỏ cuộc.
PV: Ông Nguyễn Văn Tuấn, Chủ tịch UBND xã Nghĩa Hòa, huyện Lạng Giang
Chỉ trong 3 năm, diện mạo của xã Nghĩa Hòa đã hoàn toàn thay đổi. Xã đã huy động được trên 100 tỷ đồng để xây dựng 40 hạng mục công trình như: 41km đường giao thông, 10/10 nhà văn hóa thôn, trường mầm non, bãi xử lý rác thải… Đáng chú ý, trong hơn 100 tỷ này, tiền ngân sách chỉ chiếm chưa đầy ¼. ¾ còn lại là tiền đóng góp từ người dân và doanh nghiệp. Chính sự nhiệt tình, trách nhiệm, gần dân, nói đi đôi với làm, gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào của anh Tuấn, đã giúp khơi dậy sức dân, lan tỏa phong trào hiến đất làm đường, đưa xã Nghĩa Hòa trở thành địa phương đầu tiên của tỉnh Bắc Giang về đích nông thôn mới.
PV: Đ/c Trần Ngọc Phương, Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Hòa, Lạng Giang
PV: Ông Nguyễn Văn Nghìn, Thôn Đình Cẩu, xã Nghĩa Hòa, Lạng Giang
Với 39 lần tham gia hiến máu tình nguyện, chị Thân Thị Thu Thủy, Bí thư Đảng ủy phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang được người dân trìu mến đặt cho biệt danh là "Người nghiện hiến máu”. Nhiều năm nay, chị đã không bỏ lỡ bất kỳ đợt hiến máu nào. Để nhân rộng phong trào, chị cũng là người khởi xướng thành lập CLB "Những giọt máu hồng” phường Thọ Xương. Nhiều năm liền, thành tích hiến máu của phường luôn dẫn đầu thành phố Bắc Giang. Riêng năm 2018, kết quả hiến máu của phường đạt 300% kế hoạch. Mới đây nhất, chị còn là người tiên phong của Thọ Xương tình nguyện đăng ký hiến mô tạng.
PV: Đ/c Thân Thị Thu Thủy, Bí thư Đảng ủy phường Thọ Xương, TPBG
Gần gũi, thương dân và luôn sâu sát với cơ sở, người Bí thư ấy thuộc từng góc phố, hiểu từng hoàn cảnh của người dân, để có những quyết sách và hỗ trợ phù hợp. Với 5 gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhất của phường Thọ Xương, suốt 6 năm qua, ngoài việc kêu gọi các mạnh thường quân, đều đặn mỗi tháng, chị đều trích 500 ngàn đồng từ tiền lương ít ỏi của mình để trợ giúp cho họ. Hành động đẹp của chị đã giúp lan tỏa lòng tốt, truyền cảm hứng, phát triển phong trào thiện nguyện tại địa phương.
PV: Bà Trần Thị Thoa, Hộ nghèo, Tổ dân phố số 2, phường Thọ Xương, TPBG
PV: Chị Nguyễn Thị Thu, Chủ tịch Hội phụ nữ phường Thọ Xương, TPBG
Vậy là trách nhiệm nêu gương đã giúp hình ảnh người cán bộ đảng viên đẹp hơn trong mắt quần chúng, uy tín và sức mạnh của đảng vì thế được nâng lên.
Không chỉ tìm, phát hiện, tôn vinh những tấm gương điển hình một cách thụ động, từ năm 2019, Tỉnh ủy Bắc Giang đã chỉ đạo cấp ủy các địa phương chủ động xây dựng điển hình ngay từ đầu năm để rồi 3 tháng 1 lần, phối hợp với Đài PT&TH tỉnh tổ chức tọa đàm biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến:
PV: Đ/c Nguyễn Văn Liêm, Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
PV: Đ/c Nguyễn Văn Bẩy, Phó Bí thư TT Đảng bộ phường Thọ Xương, TPBG
Không dừng lại ở đây, đầu năm 2019, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bắc Giang còn chủ động biên soạn và ban hành cuốn sổ tay về trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên và những điều đảng viên không được làm. Sổ tay được phát miễn phí cho đảng viên trong toàn Đảng bộ; được sử dụng và bảo quản giống như thẻ Đảng viên. Với những đảng viên mới, sổ tay được trao ngay trong lễ kết nạp, như một minh chứng rõ ràng, cụ thể nhất cho lời thề của người đảng viên đứng trong hàng ngũ của Đảng.
PV: Đ/c Nguyễn Thị Bích, Đảng viên Chị bộ Hoàng Văn Thụ, đảng bộ phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, dưới tác động của mặt trái cơ chế thị trường, việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cao không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trăng có khi mờ khi tỏ, gương có lúc đục, lúc trong, người cán bộ, đảng viên nếu không thường xuyên được giáo dục, rèn rũa, trách nhiệm nêu gương của họ sẽ nhẹ đi, sức chiến đấu của Đảng giảm dần và đây chính là điều mà Đảng ta không mong muốn.
PV: Đ/c Nguyễn Văn Liêm, Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Bước vào giai đoạn hội nhập và phát triển, vai trò của Đảng hơn lúc nào hết cần sức mạnh từ sự nêu gương của mỗi đảng viên. Nêu gương không những là nhiệm vụ mà còn là cơ hội để mỗi đảng viên hoàn thiện bản thân mình, làm nên sức mạnh của Đảng.
Với người đảng viên mới này, hành trình phía trước là những thời cơ, song cũng không ít thách thức. Hành trang về trách nhiệm nêu gương sẽ luôn nhắc nhở mỗi đảng viên rằng: Những việc khó khăn, gian khổ, đảng viên phải gương mẫu đi đầu, "lo trước nỗi lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ”, như câu nói cửa miệng của nhiều người "Đảng viên đi trước - làng nước theo sau!”.
LOẠT BÀI: "CÁN BỘ XÃ TIỀN PHONG (YÊN DŨNG) NHŨNG NHIỄU NGƯỜI DÂN”
Giải A, năm 2019
Tác giả: Thu Phong
Thể loại: Điều tra
BÀI 1: YÊN DŨNG: NGƯỜI DÂN TỐ CÁN BỘ XÃ "NGÂM” HỒ SƠ, PHẢI CHI TIỀN MỚI DUYỆT LÀM CHẾ ĐỘ KHUYẾT TẬT
T |
hay vì hướng dẫn người dân nhanh chóng hoàn thiện đầy đủ, chính xác giấy tờ để hưởng chế độ khuyết tật của Nhà nước thì bà Nguyễn Thị Hậu, cán bộ văn hóa xã hội UBND xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) bị tố cố tình "ngâm” hồ sơ, để dân phải chi tiền "bôi trơn" mới xét duyệt đề nghị làm chế độ.
Mòn mỏi chờ tiền chế độ
Phải mất rất nhiều thời gian kiên trì thuyết phục, tôi mới được ông Nguyễn Xuân Xa (SN 1943) ở thôn Quyết Tiến, xã Tiền Phong và những người thân trong gia đình ông đồng ý cung cấp thông tin liên quan đến hồ sơ đề nghị xét hưởng chế độ khuyết tật của người con trai là anh Nguyễn Văn Trụ (SN 1973). Anh Trụ bị tai biến từ năm 2013, miệng méo xệch không nói được, một tay bị liệt mặc áo phải có người hỗ trợ. Theo quy định, anh Trụ thuộc diện được hưởng chế độ trợ cấp khuyết tật.
Ông Xa kể: "Làm xong hồ sơ gửi ở xã gần 2 năm mà không thấy có tiền, rất nhiều lần tôi đến xã để hỏi thì được cán bộ cho biết là hồ sơ đã làm đầy đủ và gửi lên huyện rồi. Nhưng chờ mãi thấy lâu quá, sốt ruột tôi hỏi một số gia đình trong xã có người khuyết tật đã được hưởng thì họ bảo phải "đút lót”. Cuối năm 2017, trong một lần lĩnh lương thương binh và các khoản trợ cấp Tết, tôi đã gom đưa cho cô Hậu 3 triệu đồng. Tháng 8 vừa rồi, cô Hậu có trả lại tôi số tiền này, vì sao trả lại tôi cũng không biết”. Hiện mức trợ cấp mỗi tháng của anh Trụ là 405.000 đồng.
Trong số những người phản ánh về việc phải chi một khoản tiền mới được xã gửi hồ sơ hưởng chế độ khuyết tật có ông Nguyễn Văn Tâm, thôn Thành Công. Ông Tâm là cán bộ Nhà nước đã nghỉ hưu, vợ là bà Từ Thị Đông (SN 1961) bị tai biến từ tháng 1-2017 do di chứng của bệnh tiểu đường. 7 tháng chạy chữa khắp nơi, tốn kém mấy trăm triệu đồng nhưng không tiến triển. Bà Đông bị liệt nửa người bên trái không đi lại được, phải ngồi xe lăn, ăn cơm cũng khó khăn.
Ông Tâm bức xúc kể về hành trình vất vả làm hồ sơ cho người vợ khuyết tật: "Tháng 8-2018, gia đình nộp hồ sơ lên xã (nộp cho cô Hậu) đề nghị Nhà nước xem xét cho hưởng trợ cấp, được đồng nào hay đồng ấy vì nhà tôi cũng kiệt quệ lắm rồi. Đợi 4 tháng không thấy, tôi ra xã gặp cô Hậu và đút túi cho cô 500.000 đồng, bảo là tiền xăng xe nhờ cô tạo điều kiện giúp đỡ, xong việc bao nhiêu tôi đưa đủ. Thế nhưng 4 tháng nữa vẫn không thấy có thông tin, tôi lại ra xã và được cô Hậu nói là huyện chưa duyệt. Bức xúc, tôi đòi lại hồ sơ để tự xuống huyện làm lấy thì được cô Hậu đưa cho nhưng giữ lại biên bản họp Hội đồng xác định mức độ khuyết tật của xã”. Sau đó, ông Tâm cầm hồ sơ gặp trực tiếp ông Trần Văn Học, Chủ tịch UBND xã Tiền Phong. Ông Học gọi cô Hậu yêu cầu ngay buổi chiều phải đưa ông Tâm xuống huyện để làm chế độ cho bà Đông. Tại đây, ông Tâm gặp ông Huấn, Trưởng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Yên Dũng và trình bày hồ sơ đã nộp 8 tháng ở xã rồi. Trong khi đó một số trường hợp bị nhẹ hơn rất nhiều đã được hưởng. "Đang nói chuyện với anh Huấn thì cô Hậu đi vào, anh Huấn bảo cô Hậu về hoàn thiện hồ sơ cho bà Đông để duyệt. 5 ngày sau (đầu tháng 5-2019), vợ tôi được hưởng chế độ 405.000 đồng/tháng. Bà ấy bị nặng, lẽ ra phải được hưởng cả chế độ người chăm sóc. Một số người rỉ tai tôi bảo phải chi thêm tiền nhưng tôi không làm vậy”- ông Tâm tiếp tục kể.
Ngoài những trường hợp trên, phóng viên nhận thông tin người dân phản ánh còn có những gia đình như ông Thân Văn Năm, bà Nguyễn Thị Bích Thủy, ông Thân Văn Liệu, anh Nguyễn Thế Vương, thôn Quyết Tiến; ông Trần Văn Sử, bà Thân Thị Lập, thôn Thành Công… đều có người bị khuyết tật nhưng để được hưởng chế độ đã phải đưa cho bà Hậu từ 2 đến 5 triệu đồng mỗi trường hợp. Đáng chú ý là các gia đình sau khi được hưởng chế độ đều nhận được lời "nhắn nhủ” từ bà Hậu, đại ý là không được nói với ai về việc đã đưa tiền, xóa hết tin nhắn trao đổi, nếu không sẽ đề nghị huyện cắt hết. Một nhân chứng khi đã đưa cho bà Hậu 3 triệu đồng mà vẫn chưa làm được chế độ cho biết: Khi trao đổi, chị Hậu còn thách thức nhắn tin rằng: "Căng thẳng quá em cáu đấy, em cho tịt luôn không làm gì nữa. Ai làm chứng đưa tiền cho em…”. Theo thông tin từ các gia đình thì những hồ sơ người dân gửi đến từ nhiều năm trước đều phải mất một khoản tiền lo lót mới được hưởng xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ khuyết tật.
Đề nghị cơ quan chức năng sớm vào cuộc
Trước sự việc trên, chúng tôi đã trao đổi với ông Trần Văn Học, Chủ tịch UBND xã Tiền Phong, Chủ tịch Hội đồng xác định mức độ khuyết tật của xã. Ban đầu khi đề cập đến việc người dân phản ánh phải bỏ ra một khoản tiền "bôi trơn” mới được làm hồ sơ hưởng chế độ khuyết tật, ông Học từ chối: "Không có việc đó, họ cứ dựng lên thế”.
Để chứng minh cho lời nói của mình, ông Học cho biết kỳ họp HĐND xã vừa qua, một số đại biểu cũng có chất vấn về việc này, xã đã mời các cá nhân có ý kiến lên làm việc và họ đều nói không có việc phải đưa tiền cho cán bộ làm chính sách (?). Khi phóng viên đến các gia đình tìm hiểu thì họ cho biết, trước đó đã có 2 lần cán bộ xã vào từng gia đình "dặn dò” là nếu có ai vào hỏi thì phải nói là "Không đưa tiền cho ai cả”. Khi phóng viên đưa ra một số nhân chứng, bằng chứng và tin nhắn, ghi âm lời người dân thì ông Học im lặng và nói sẽ cho kiểm tra lại.
Trong quá trình tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi còn được người dân cung cấp thông tin ông Nguyễn Minh Huệ (SN 1957), trú tại thôn An Thịnh không đi bộ đội nhưng đã làm hồ sơ giả. Mặc dù xã có biết nhưng làm ngơ, nhận tiền để hợp lý hồ sơ cho ông Huệ được hưởng chế độ chất độc da cam từ năm 2017.
Từ những ý kiến do bạn đọc Báo Bắc Giang gửi đến và thông tin ban đầu do phóng viên thu thập được, đề nghị các cơ quan chức năng huyện Yên Dũng sớm xác minh, làm rõ có hay không việc cán bộ chính sách xã Tiền Phong ‘‘ngâm” hồ sơ của dân, để dân phải chi tiền mới chịu xét duyệt đề nghị làm chế độ.
BÀI 2: UBND XÃ TIỀN PHONG HỌP KHẨN, XÉT BỔ SUNG 8 HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ HƯỞNG CHẾ ĐỘ KHUYẾT TẬT CHO NGƯỜI DÂN
S áng 10-12, Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) đã tiến hành họp khẩn để xác định mức độ khuyết tật cho 8 đối tượng đã gửi hồ sơ từ nhiều tháng trước. Trên cơ sở kết quả, Hội đồng sẽ nhanh chóng chuyển hồ sơ đến cơ quan chức năng xét chế trợ cấp khuyết tật cho người dân.
Ngày 9 và 10/12, Báo Bắc Giang đăng bài: "Xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ khuyết tật- Người dân tố cán bộ xã Tiền Phong nhũng nhiễu”. Nội dung bài báo phản ánh bà Nguyễn Thị Hậu (SN 1983), cán bộ Văn hóa xã hội UBND xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) bị nhiều người dân tố đã "ngâm” hồ sơ, để dân phải chi tiền "bôi trơn" mới xét duyệt đề nghị làm chế độ khuyết tật.
Ngay sau khi báo đăng tải, ông Trần Văn Học, Chủ tịch UBND xã Tiền Phong, Chủ tịch Hội đồng xác định mức độ khuyết tật của xã đã triệu tập ngay cuộc họp gồm các thành viên Hội đồng, 8 đối tượng khuyết tật (đã nộp hồ sơ cho xã trước đó nhiều tháng) và nhân thân của họ đến Hội trường UBND xã để thực hiện các bước xét duyệt, kiểm tra thực tế.
Kết luận, cả 8 trường hợp đều được Hội đồng xét duyệt hồ sơ với mức độ khuyết tật cụ thể. Bao gồm:
1. Nguyễn Văn Cổng (SN 1949), thôn Liên Sơn: Khuyết tật nặng
2. Thân Thị Định (SN 1957), thôn Thành Công: Khuyết tật nặng
3. Dương Thị Thanh (SN 1950), thôn Thành Công: Khuyết tật nặng
4. Thân Thị Sen (SN 1941), thôn Thành Công: Khuyết tật nặng
5. Thân Thị Phòng (SN 1954), thôn Quyết Tiến: Khuyết tật nặng
6. Nguyễn Văn Cầm (SN 1960), thôn Quyết Tiến: Khuyết tật nặng
7. Doãn Văn Hân (SN 1945), thôn An Thịnh: Khuyết tật nặng
8. Phạm Văn Nguyện (SN 1963), thôn Thành Công: Khuyết tật nhẹ
Trên cơ sở kết quả này, Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã sẽ nhanh chóng làm các thủ tục, chuyển cơ quan chuyên môn đề nghị xem xét cho các đối tượng được hưởng chế độ theo đúng quy định của Nhà nước.
BÀI 3: CHẬM NHẤT LÀ NGÀY 16-12 SẼ CÓ KẾT QUẢ XÁC MINH VIỆC DÂN TỐ CÁN BỘ XÃ NHŨNG NHIỄU ĐỂ LÀM HỒ SƠ HƯỞNG CHẾ ĐỘ KHUYẾT TẬT Ở XÃ TIỀN PHONG
Ngay sau khi Báo Bắc Giang thông tin về việc người dân tố cán bộ chính sách xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) ‘‘ngâm” hồ sơ của dân, để dân phải chi tiền "bôi trơn” mới chịu xét duyệt đề nghị làm chế độ khuyết tật, Sở Lao động- Thương binh và xã hội; UBND huyện Yên Dũng đã có văn bản chỉ đạo đề nghị kiểm tra, xác minh vụ việc.
Ngày 10/12, Phó Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Giang Trương Đức Huấn đã ký ban hành văn bản đề nghị Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng chỉ đạo, xác minh làm rõ vụ việc Báo Bắc Giang nêu người dân tố cán bộ chính sách xã Tiền Phong ‘‘ngâm” hồ sơ của dân, để dân phải chi tiền "bôi trơn” mới chịu xét duyệt đề nghị làm chế độ khuyết tật. Đồng thời xem xét xử lý vụ việc, xử lý cán bộ vi phạm có liên quan (nếu có) theo đúng quy định của pháp luật, báo cáo về Sở Lao động-Thương binh và Xã hội trước ngày 16-12-2019.
Cùng thời gian, UBND huyện Yên Dũng yêu cầu Thanh tra huyện xác minh, khẩn trương làm rõ thông tin của Báo Bắc Giang nêu về vụ việc ở xã Tiền Phong; đề xuất biện pháp xử lý đối với cán bộ có sai phạm (nếu có), báo cáo tình hình, kết quả về Chủ tịch UBND huyện, chậm nhất ngày 16-12.
Trước đó, báo Bắc Giang điện tử đăng tải bài viết "Yên Dũng: Người dân tố cán bộ xã "ngâm” hồ sơ, phải chi tiền mới duyệt làm chế độ khuyết tật”. Bài báo phản ánh nhiều người dân bức xúc khi cán bộ xã không chuyển hồ sơ cho cơ quan chức năng để đề nghị xét duyệt hưởng chế độ khuyết tật theo quy định, đồng thời phải đưa cho bà Nguyễn Thị Hậu, cán bộ văn hóa xã hội UBND xã Tiền Phong một khoản tiền mới được xét hồ sơ.
Bài báo cũng nêu người dân cho rằng ông Nguyễn Minh Huệ (SN 1957), trú tại thôn An Thịnh không đi bộ đội nhưng đã làm hồ sơ giả để hưởng chế độ chất độc da cam từ năm 2017.
BÀI 4: LÀM QUY TRÌNH KỶ LUẬT CÁN BỘ VĂN HÓA – XÃ HỘI UBND XÃ TIỀN PHONG (YÊN DŨNG)
Chiều 24-12, làm việc với phóng viên Báo Bắc Giang về nội dung bài báo "Yên Dũng -người dân tố cán bộ xã "ngâm” hồ sơ, phải chi tiền mới duyệt làm chế độ khuyết tật” xảy ra tại xã Tiền Phong, ông Bùi Quang Huy, Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng (Bắc Giang) cho biết: Quan điểm của huyện là điều tra, xác minh vụ việc thận trọng, kỹ lưỡng và sẽ xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật, qua đó cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa chung.
Trước đó, vào ngày 9 và 10/12/2019, Báo Bắc Giang đăng bài: Yên Dũng "người dân tố cán bộ xã "ngâm” hồ sơ, phải chi tiền mới duyệt làm chế độ khuyết tật” xảy ra tại xã Tiền Phong. Nội dung bài báo phản ánh nhiều người dân bức xúc khi cán bộ xã không chuyển hồ sơ cho cơ quan chức năng để đề nghị xét duyệt hưởng chế độ khuyết tật theo quy định, đồng thời phải đưa cho bà Nguyễn Thị Hậu (SN 1983), cán bộ văn hóa xã hội UBND xã Tiền Phong một khoản tiền mới được xét hồ sơ.
Trên cơ sở nội dung Báo nêu, Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng đã giao Thanh tra huyện phối hợp với phòng Lao động- Thương binh và Xã hội huyện kiểm tra, xác minh. Kết quả như sau:
1. Giao Công an huyện điều tra, xác minh có hay không việc đưa và nhận tiền.
Qua đối chất giữa bà Hậu với ông Nguyễn Xuân Xa và ông Nguyễn Viết Tâm (2 nhân vật nêu trong bài báo), cả hai ông đều khẳng định việc có đưa tiền cho bà Hậu (ông Xa đưa 3.000.000 đồng, ông Tâm đưa 500.000 đồng) để nhờ bà Hậu giúp giải quyết nhanh chóng việc làm hồ sơ hưởng chế độ trợ cấp xã hội. Còn bà Nguyễn Thị Hậu khẳng định là không nhận tiền của ông Xa và ông Tâm.
Vì cả 2 bên không đưa ra được bằng chứng chứng minh liên quan đến việc đưa và nhận tiền nên chưa đủ căn cứ để kết luận việc này là có hay không. Vì vậy, Chủ tịch UBND huyện đã giao Công an huyện tiến hành điều tra, xác minh.
2. Xã chậm, muộn trong việc làm hồ sơ
- Ông Nguyễn Văn Tâm (SN 1956), thôn Thành Công, là chồng đối tượng Từ Thị Đông có ý kiến hồ sơ của vợ ông làm từ tháng 8-2018 đến tháng 5-2019 bà Đông mới được hưởng trợ cấp khuyết tật.
- Trường hợp cháu Thân Thị Thanh Xuân (SN 2011), thôn Bình An, đại diện gia đình có ý kiến thời gian xác định thương tật cấp xã mất gần 12 tháng, đến tháng 10-2018 được hưởng trợ cấp.
- Trường hợp ông Nguyễn Văn Hùng (SN 1981), thôn Liên Sơn có ý kiến nhiều lần gia đình đề nghị cấp xã làm hồ sơ nhưng không được, gia đình phải trực tiếp đến Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện làm hồ sơ mới được hưởng trợ cấp từ tháng 5-2019.
3. Lưu giữ hồ sơ chưa đúng quy định
Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện trực tiếp kiểm tra hồ sơ lưu tại UBND xã Tiền Phong. Qua kiểm tra ngẫu nhiên 11 hồ sơ, đối chiếu với các văn bản hướng dẫn cho thấy: Các hồ sơ lưu còn thiếu các văn bản theo quy định của pháp luật, không đảm bảo tính pháp lý, khó cho việc theo dõi, quản lý.
Hầu hết các văn bản lưu không ghi ngày, tháng, năm, kể cả giấy xác nhận người khuyết tật; không đủ chữ ký của thành viên Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch UBND xã, dấu của UBND… Đặc biệt, 11/11 hồ sơ lưu không có đơn đề nghị của đối tượng nên việc xác định thời gian từ khi đối tượng đề nghị đến khi Hội đồng xác định mức độ khuyết tật cấp xã họp xác định dị dạng, dị tật và mức độ khuyết tật nên không xác định được thời gian chậm, muộn là bao nhiêu ngày.
4. Chậm cấp Giấy xác nhận khuyết tật, hồ sơ bị chỉnh sửa
Căn cứ vào ngày, tháng, năm trong phiếu xác định mức độ, dạng khuyết tật, thời gian Hội đồng xác định mức độ khuyết tật cấp xã họp để xác định mức độ khuyết tật của người khuyết tật còn chậm, cụ thể:
+ Trường hợp bà Từ Thị Đông, thôn Thành Công trong phiếu xác định khuyết tật của bà Lê Hải Mỹ - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tiền Phong (thành viên Hội đồng xác định mức độ khuyết tật của xã) ghi ngày 17/01/2019 đến ngày 15/4/2019, Chủ tịch Hội đồng xác định mức độ khuyết tật của xã cấp Giấy xác nhận khuyết tật cho đối tượng, chậm so với quy định 37 ngày.
+ Trường hợp ông Nguyễn Văn Hùng, thôn Liên Sơn, Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã Tiền Phong cấp Giấy xác nhận khuyết tật ngày 24/8/2017 đến ngày 16/12/2018 đối tượng làm tờ khai đề nghị hưởng trợ cấp, chậm khoảng 12 tháng.
+ Trường hợp ông Nguyễn Văn Trụ, thôn Quyết Tiến hồ sơ lưu tại xã Giấy xác nhận khuyết tật ghi ngày 16/5/2018, biên bản Hội đồng xét duyệt trợ cấp xã hội cấp xã họp ngày 23/5/2018, nhưng Giấy xác nhận khuyết tật nộp tại Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện ghi ngày 14/7/2018, biên bản Hội đồng xét duyệt trợ cấp xã hội cấp xã họp ngày 19/7/2018. Như vậy hồ sơ của đối tượng đã bị chỉnh sửa, chậm thời gian gần 30 ngày.
+ Trường hợp bà Thân Thị Lý, thôn Thành Công cũng bị điều chỉnh từ tháng 2/2019 lên tháng 5/2019, chậm khoảng 45 ngày.
5. Làm quy trình kỷ luật đối với bà Nguyễn Thị Hậu
Căn cứ những xác minh ban đầu cho thấy: Bà Nguyễn Thị Hậu chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao trong việc tham mưu cho Chủ tịch UBND - Chủ tịch Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã Tiền Phong làm hồ sơ giải quyết chế độ bảo trợ xã hội cho một số đối tượng trên địa bàn được kịp thời; chưa hướng dẫn cụ thể quy trình, thủ tục làm hồ sơ đối với các đối tượng; lưu giữ hồ sơ chưa đầy đủ, chưa đúng quy định... Từ đó dẫn đến việc gây bức xúc và có dư luận trong nhân dân về việc cán bộ chính sách xã hội xã "ngâm” hồ sơ của dân để vòi vĩnh tiền "bôi trơn”.
Với những khuyết điểm vi phạm của bà Nguyễn Thị Hậu như trên, Chủ tịch UBND huyện đã giao cho phòng Nội vụ huyện làm quy trình kỷ luật đối với bà Nguyễn Thị Hậu.
BÀI 5: KỶ LUẬT CẢNH CÁO CÁN BỘ XÃ BỊ TỐ NHŨNG NHIỄU NGƯỜI DÂN
Hôm nay (31-12), ông Bùi Quang Huy, Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng (Bắc Giang) đã ký quyết định về việc kỷ luật đối với bà Nguyễn Thị Hậu (SN 1984), công chức Văn hóa xã hội xã Tiền Phong.
Trước đó, Báo Bắc Giang đăng bài viết "Yên Dũng: Người dân tố cán bộ xã "ngâm” hồ sơ, phải chi tiền mới duyệt làm chế độ khuyết tật”. Nội dung bài báo phản ánh nhiều người dân xã Tiền Phong bức xúc khi cán bộ xã không chuyển hồ sơ cho cơ quan chức năng để đề nghị xét duyệt hưởng chế độ khuyết tật theo quy định, đồng thời phải đưa cho bà Nguyễn Thị Hậu, công chức văn hóa xã hội xã Tiền Phong một khoản tiền mới được xét hồ sơ.
Ngay sau khi báo đăng, Sở Lao động- Thương binh và xã hội; UBND huyện Yên Dũng đã chỉ đạo cơ quan chức năng kiểm tra, xác minh vụ việc. Theo quyết định, bà Nguyễn Thị Hậu bị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo do vi phạm kỷ luật lao động trong việc thực thi công vụ. Bà Hậu phải chấp hành kỷ luật và có trách nhiệm thực hiện các quy định khác liên quan đến việc kỷ luật cán bộ, công chức cấp xã theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Quyết định có hiệu lực từ ngày 31-12-2019.
BÀI 6: THI HÀNH KỶ LUẬT ĐẢNG VIÊN BỊ TỐ NHŨNG NHIỄU NGƯỜI DÂN
Hôm nay (18/2), Đảng ủy xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) đã ra quyết định thi hành kỷ luật đối với đảng viên Nguyễn Thị Hậu (SN 1984), công chức văn hóa xã hội bằng hình thức Cảnh cáo.
Xét tự kiểm điểm của đồng chí Nguyễn Thị Hậu và báo cáo của Tổ kiểm tra Đảng ủy xã, Đảng ủy xã Tiền Phong nhận thấy: Đồng chí Hậu chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao trong việc tham mưu cho Chủ tịch UBND xã - Chủ tịch Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã Tiền Phong, làm hồ sơ giải quyết chế độ bảo trợ xã hội cho một số đối tượng trên địa bàn chưa được kịp thời, để chậm muộn; lưu trữ hồ sơ hưởng chế độ bảo trợ xã hội chưa đầy đủ, chưa đúng quy định… nên để xảy ra các sai phạm. Những vi phạm của đảng viên Nguyễn Thị Hậu đã gây dư luận xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, làm mất uy tín của bản thân đến mức phải xử lý kỷ luật đảng.
Theo Quy định 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 Ban Chấp hành Trung ương quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, căn cứ điểm b, khoản 2, điều 30 (Lạm quyền, giải quyết công việc không đúng thẩm quyền hoặc cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong khi giải quyết công việc), Đảng ủy xã Tiền Phong đã ra quyết định thi hành kỷ luật đảng viên Nguyễn Thị Hậu bằng hình thức Cảnh cáo.
Trước đó, Báo Bắc Giang đăng bài viết "Yên Dũng: Người dân tố cán bộ xã "ngâm” hồ sơ, phải chi tiền mới duyệt làm chế độ khuyết tật”. Nội dung bài báo phản ánh nhiều người dân xã Tiền Phong bức xúc khi cán bộ xã không chuyển hồ sơ cho cơ quan chức năng để đề nghị xét duyệt hưởng chế độ khuyết tật theo quy định, đồng thời phải đưa cho công chức văn hóa xã hội xã Tiền Phong là Nguyễn Thị Hậu một khoản tiền mới được xét hồ sơ. Ngay sau khi báo đăng, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội; UBND huyện Yên Dũng đã chỉ đạo cơ quan chức năng kiểm tra, xác minh vụ việc.
Ngày 31/12/2019, công chức Nguyễn Thị Hậu bị Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng ký quyết định kỷ luật bằng hình thức Cảnh cáo do vi phạm trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức cấp xã.
BÀI 7: TÔI LÀM ĐIỀU TRA VỀ CÁN BỘ XÃ NHŨNG NHIỄU NGƯỜI DÂN
Cuối năm 2019, tôi tình cờ biết thông tin một số người dân ở xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) phải nộp tiền mới được xét hưởng chế độ khuyết tật. Trong số họ, người thì đau ốm liên miên vì tai biến mạch máu não, người ngồi xe lăn hoàn cảnh rất khó khăn... Với trách nhiệm nghề nghiệp, tôi dành nhiều thời gian tìm hiểu và đưa vụ việc ra ánh sáng.
Hành trình tìm chứng cứ
Đầu tháng 11/2019, trong một lần về xã Tiền Phong thăm người thân (anh K) bị tai biến mạch máu não, suy giảm khả năng lao động, tôi biết được thông tin gia đình anh đã phải bỏ ra 3 triệu đồng để "bôi trơn” cho bà Nguyễn Thị Hậu, cán bộ văn hóa xã hội UBND xã mới được xét duyệt hồ sơ. Không riêng gì anh K, nhiều người dân trong xã không may bị tai nạn hay tai biến thuộc diện hưởng chế độ hằng tháng của Nhà nước cũng phải chi một khoản tiền cho bà Hậu, nếu không hồ sơ của họ sẽ bị "ngâm” không biết đến khi nào mới được đưa ra Hội đồng xét duyệt đề nghị được hưởng chế độ. Số tiền mỗi trường hợp phải chi từ 3-5 triệu đồng.
Tôi thầm nghĩ: Lẽ ra những đối tượng yếu thế như vậy phải được quan tâm nhiều hơn, vậy mà cán bộ xã nỡ lòng nào "ăn” tiền của họ? Khéo léo hỏi dò, tìm hiểu ở những trường hợp khác thì được biết việc phải chi tiền như vậy là có xảy ra. Ngày hôm sau, tôi quyết định báo cáo, xin ý kiến Ban Biên tập cho tìm hiểu vấn đề này.
Trong quá trình tìm hiểu thông tin, khai thác tư liệu, tôi đã mất khá nhiều thời gian đi lại như con thoi. Ban ngày tôi đến nhà để trao đổi với chính đối tượng khuyết tật, trường hợp nào không nói được tôi đề nghị viết ra giấy. Nhiều buổi tối tôi gặp người thân của người khuyết tật (vì ban ngày họ đi làm), lân la trò chuyện để nghe kể lại vụ việc. Tôi cũng gặp một số đảng viên, cán bộ nghỉ hưu ở xã để có thêm thông tin.Thu thập xong tài liệu chứng cứ, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh, sao lại các tin nhắn của người dân với bà Hậu, tôi quyết định gặp đồng chí Chủ tịch UBND - Chủ tịch Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã Tiền Phong. Ban đầu, khi nghe tôi đề cập đến việc người dân phản ánh vụ việc, đồng chí Chủ tịch nói: "Không có việc đó, họ cứ dựng lên thế”.
Và để chứng minh cho lời nói của mình, đồng chí còn cho biết, kỳ họp HĐND xã trước đó, một số đại biểu cũng có chất vấn về việc này, xã đã mời các cá nhân có ý kiến lên làm việc và họ đều nói không có việc phải đưa tiền cho cán bộ làm chính sách (?). Xã còn chuyển cho tôi một Thông báo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy xã ngày 8/11/2019 với nội dung: "Đồng chí Hậu không vi phạm; các đối tượng làm hồ sơ để hưởng trợ cấp không phải nộp bất kỳ khoản phí nào”.
Dân bảo có, xã nói không, để củng cố thông tin, tôi tiếp tục đến các gia đình đã khẳng định với tôi là có đưa tiền "bôi trơn” cho bà Hậu. Thế nhưng, trái hẳn với sự chào đón nhiệt tình như lần trước, lần này một số người lại rất dè dặt, thậm chí từ chối không gặp hoặc phủ nhận những điều đã nói trước đó. Qua tìm hiểu, tôi nắm được, khi biết có phóng viên đến thì đã có 2 lần cán bộ xã vào từng gia đình "dặn dò” là nếu có ai hỏi thì phải nói là "Không đưa tiền cho ai cả”.
Cơ quan chức năng vào cuộc
Sau gần một tháng điều tra, tôi hoàn thiện tác phẩm. Trưa 9/12/2019, bài báo được đăng báo Bắc Giang điện tử với tiêu đề: "Yên Dũng -Người dân tố cán bộ xã "ngâm” hồ sơ, phải chi tiền mới duyệt làm chế độ khuyết tật”. Bài báo liệt kê nhiều trường hợp cụ thể phải chi tiền bôi trơn, chi bao nhiêu, vào thời điểm nào… và đề nghị các cơ quan chức năng huyện Yên Dũng sớm xác minh, làm rõ. Ngay chiều hôm đó, tôi đã gặp "rắc rối” khi vợ của một nạn nhân khuyết tật gọi điện khẩn khoản nói rằng: "Chị giúp em xóa tên chồng em trong bài báo có được không?. Giờ chồng em tàn tật thế, bố mẹ già rồi, con còn nhỏ, em đi làm công nhân thế này lo lắm. Nhỡ họ trả thù thì em biết làm thế nào?”. Thế nhưng cũng có nhiều người gọi điện ủng hộ bởi cho rằng bài báo phản ánh đúng thực tế, mong sớm điều tra làm rõ.
Sau khi báo đăng, sáng 10/12, Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã Tiền Phong đã tiến hành họp khẩn để xác định mức độ khuyết tật cho 8 đối tượng đã gửi hồ sơ từ nhiều tháng trước, đồng thời kết luận, cả 8 trường hợp đều được Hội đồng xét duyệt hồ sơ với mức độ khuyết tật cụ thể, chuyển cho cơ quan chức năng xem xét. Sở Lao động- Thương binh và Xã hội cũng có ngay văn bản yêu cầu Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội huyện kiểm tra, xác minh.
Cùng ngày, ông Bùi Quang Huy, Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng khi làm việc với phóng viên cũng nêu quan điểm là sẽ xem xét vụ việc thận trọng, kỹ lưỡng và xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật (nếu có vi phạm); chỉ đạo, giao Thanh tra huyện phối hợp với Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội huyện kiểm tra, xác minh vụ việc báo nêu.
Chiều 24/12, Báo Bắc Giang điện tử tiếp tục đăng bài: "Làm quy trình kỷ luật cán bộ văn hóa - xã hội UBND xã Tiền Phong (Yên Dũng)”. Căn cứ những xác minh ban đầu cho thấy: Bà Nguyễn Thị Hậu (SN 1984) chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao trong việc tham mưu cho Chủ tịch UBND - Chủ tịch Hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã Tiền Phong làm hồ sơ giải quyết chế độ bảo trợ xã hội cho một số đối tượng trên địa bàn được kịp thời; chưa hướng dẫn cụ thể quy trình, thủ tục làm hồ sơ đối với các đối tượng; lưu giữ hồ sơ chưa đầy đủ, chưa đúng quy định... Từ đó dẫn đến việc gây bức xúc và có dư luận trong nhân dân về việc cán bộ chính sách xã hội xã "ngâm” hồ sơ của dân để vòi vĩnh tiền "bôi trơn”.
Với những khuyết điểm vi phạm của bà Nguyễn Thị Hậu như trên, ngày 31/12, ông Bùi Quang Huy, Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng đã ký quyết định kỷ luật bà Nguyễn Thị Hậu bằng hình thức cảnh cáo. Tiếp đó, ngày 18/2, Đảng ủy xã Tiền Phong đã ra quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với đảng viên Nguyễn Thị Hậu.
Với những tác động xã hội mang lại, bài báo "Yên Dũng -Người dân tố cán bộ xã "ngâm” hồ sơ, phải chi tiền mới duyệt làm chế độ khuyết tật” đã được trao giải A Giải báo chí Thân Nhân Trung năm 2019.
Theo thông tin phóng viên nắm được thì vụ việc này vẫn chưa kết thúc. Bởi vấn đề cuối cùng mà nhiều bạn đọc quan tâm là những cán bộ liên quan có bị xem xét xử lý hay không? Bà Nguyễn Thị Hậu vẫn tiếp tục làm việc tại UBND xã Tiền Phong phụ trách mảng lao động- thương binh và xã hội liệu có còn phù hợp?
NÂNG CAO KỶ CƯƠNG, ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
Giải A, năm 2019
Tác giả: Kim Hiếu, Hoài Thu
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: TẠO ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN KT-XH
V |
ới nhiều nỗ lực cải cách hành chính, đạo đức, tác phong của đội ngũ công chức, viên chức ở bộ phận một cửa các cấp của tỉnh Bắc Giang cải thiện đáng kể. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện thường xuyên, nhiều vi phạm được xử lý nghiêm theo quy định. Những thay đổi đó tạo động lực cho sự phát triển KT-XH địa phương.
Quyết tâm cao
Tỉnh Bắc Giang những năm gần đây đang ngày càng phát triển về KT-XH. Các chỉ số về năng lực cạnh tranh (PCI), cải cách hành chính (PAR INDEX), hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), sự hài lòng của tổ chức, công dân, doanh nghiệp trên địa bàn có sự cải thiện tích cực. Năm 2018, Bắc Giang xếp vị trí thứ 3/63 tỉnh, TP, thuộc nhóm dẫn đầu cả nước về chỉ số PAPI.Nhằm khai thác, phát huy lợi thế về vị trí địa lý, giao thông, lãnh đạo và các cơ quan chức năng của tỉnh đã không ngừng tìm kiếm các giải pháp để tăng sức hút đầu tư; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động.
Trong năm 2019, các dự án đầu tư được cấp mới trên địa bàn có quy mô lớn hơn, vốn trung bình các dự án trong nước đạt 22,8 tỷ đồng/dự án, tăng 26,5%; các dự án FDI đạt 11,3 triệu USD/dự án, tăng gấp 4,1 lần so với năm 2018. Để đạt được kết quả đó, ngoài tập trung đầu tư cơ sở vật chất, Tỉnh ủy, UBND tỉnh quyết liệt trong chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính (TTHC). Trong đó, kiểm tra công vụ, chấn chỉnh văn hóa công sở, duy trì kỷ cương hành chính là một trong những nội dung Tỉnh ủy Bắc Giang tăng cường chỉ đạo.
Ngày 4/7/2014, Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 14 về chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc và nâng cao trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang.Ngày 1/9/2016, BTV Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 131-NQ/TU về đẩy mạnh cải cách hành chính trong hệ thống chính trị tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2016 - 2020. Mục tiêu hướng đến là xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân, vì nhân dân, trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại.Đến năm 2020, các chỉ số về năng lực cạnh tranh, hiệu quả quản trị hành chính công, chỉ số cải cách hành chính nhà nước nằm trong nhóm tiên tiến, xếp hạng 10-15 tỉnh đứng đầu cả nước. Thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về xây dựng, chính đốn Đảng, nội dung đó tiếp tục được tăng cường theo hướng cụ thể, rõ người, rõ việc.
Sau khi có Chỉ thị số 14, Sở Nội vụ đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện; trong đó yêu cầu hằng năm, Sở Nội vụ, phòng nội vụ các huyện thành lập tổ kiểm tra về tình hình thực thi công vụ; các cơ quan, đơn vị, UBND các cấp thường xuyên kiểm tra hoạt động nội bộ; mỗi cán bộ, công chức, viên chức nâng cao ý thức, trách nhiệm.Sau mỗi đợt kiểm tra, các tổ ban hành văn bản chỉ rõ khuyết điểm ở từng cơ quan, cá nhân; yêu cầu có phương án khắc phục với phương châm "rõ hình thức, rõ thời hạn”.
Để khắc phục tình trạng đội ngũ công chức còn gây phiền hà cho doanh nghiệp, ngày 27/12/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1847/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ.UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành kế hoạch thực hiện Đề án; trong đó nhấn mạnh nội dung giao tiếp, cán bộ phải tôn trọng, lắng nghe, tận tình hướng dẫn và thực hiện "4 xin, 4 luôn” (xin chào, xin lỗi, xin cảm ơn, xin phép; luôn mỉm cười, luôn nhẹ nhàng, luôn lắng nghe, luôn giúp đỡ).
Đáng lưu ý là ngày 29/7/2019, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Công văn số 1937-CV/TU về việc thực hiện nghiêm quy định thời gian làm việc và quy định không uống rượu, bia.Trong đó yêu cầu người đứng đầu các cấp, các ngành có trách nhiệm giáo dục, nhắc nhở cán bộ, đảng viên thuộc quyền quản lý thực hiện nghiêm quy định về thời gian, giờ làm việc hành chính, quy định về không uống rượu, bia trong giờ hành chính, buổi trưa các ngày làm việc, ngày trực và trước khi điều khiển phương tiện cơ giới tham gia giao thông.Công văn một lần nữa thể hiện sự kiên quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh trong duy trì kỷ cương hành chính.
Cùng với việc chấn chỉnh thái độ, tác phong, các sở, ngành, huyện, TP triển khai đồng bộ các giải pháp xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tận tâm, tận lực.Đơn cử như TP Bắc Giang triển khai phong trào 3 hơn (chuyên nghiệp hơn, thân thiện hơn, hiệu quả hơn) trong cải cách hành chính; các huyện: Lạng Giang, Việt Yên triển khai "Ngày thứ Bảy tình nguyện” hướng dẫn công dân giải quyết TTHC; Đoàn các cơ quan tỉnh có phong trào "Nụ cười công chức”, "Cán bộ hai tốt”.Quá trình thực hiện ở mỗi ngành, địa phương lại có cách làm phù hợp tình hình thực tế nhằm phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức.
Kịp thời chấn chỉnh, xử lý vi phạm
Với quyết tâm cao của cấp ủy, chính quyền nhằm xây dựng nền hành chính vì dân, hằng tháng các tổ kiểm tra công vụ các cấp đều duy trì việc kiểm tra đột xuất. Thống kê từ Phòng Thanh tra - Sở Nội vụ, từ đầu năm 2014 đến nay, Sở tổ chức kiểm tra gần 400 lượt xã, thị trấn, cơ quan, đơn vị, trường học, cơ sở y tế. Qua kiểm tra kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế của các cơ quan, đơn vị, địa phương.
Huyện Việt Yên là vùng trọng điểm công nghiệp, thu hút nhiều dự án đầu tư quan trọng. Từ năm 2014 đến nay, huyện đã kiểm tra gần 500 lượt UBND cấp xã, trường học, trạm y tế. Qua kiểm tra đã phát hiện, nhắc nhở hàng chục trường hợp như: Đi muộn; không đeo thẻ tên; nghỉ không có lý do…Năm 2017, qua kiểm tra đột xuất việc thực thi công vụ, UBND huyện quyết định kỷ luật khiển trách một công chức xã Trung Sơn do vi phạm nền nếp và quy trình làm việc. Sau sự việc này, các xã tổ chức rút kinh nghiệm, chấn chỉnh 100% cán bộ, công chức nâng cao ý thức trách nhiệm hơn trong thực thi công vụ.
Thực hiện Công văn 1937 của Tỉnh ủy, vừa qua, các tổ trong tỉnh đã kiểm tra đột xuất tại 50 lượt cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh, phát hiện một số trường hợp chấp hành chưa đúng giờ làm việc, không đeo thẻ.Đặc biệt ngày 20/8, tổ kiểm tra của Sở Nội vụ phát hiện một công chức tư pháp- hộ tịch bộ phận một cửa xã Quế Nham (Tân Yên) mặc trang phục không phù hợp và có biểu hiện sử dụng rượu bia. Tổ đã lập biên bản, gửi công văn đề nghị UBND huyện Tân Yên xem xét, xử lý kỷ luật.
Được biết, huyện Tân Yên đã có văn bản phê bình Chủ tịch UBND xã Quế Nham; điều chuyển công chức vi phạm khỏi vị trí tiếp công dân. Theo danh sách phê duyệt đối tượng tinh giản biên chế đợt 1 năm 2020 của Bắc Giang, công chức này thuộc diện tinh giản do có hai năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ và hạn chế về năng lực.
Chuyển biến từ cơ sở
Thường xuyên kiểm tra, phê bình thẳng thắn và công khai hạn chế, khuyết điểm, xử lý nghiêm vi phạm là kinh nghiệm của Bắc Giang trong chấn chỉnh lề lối, phong cách làm việc.Đánh giá của Sở Nội vụ, qua hoạt động kiểm tra công vụ, lề lối, tác phong làm việc, kỹ năng, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.Các cơ quan, đơn vị đều ban hành và thực hiện quy chế văn hóa công sở. Ý thức trách nhiệm với công việc cũng như tinh thần phục vụ công dân được nâng lên. Tình trạng uống rượu bia các buổi trưa ngày làm việc, ngày trực từng bước được đẩy lùi.
Đến xã Trung Sơn (Việt Yên) giờ đây cơ sở vật chất khang trang hơn, mọi thủ tục tại bộ phận một cửa được tiến hành nhanh gọn, cán bộ niềm nở, chu đáo.Ông Trần Đỗ Thảo, Trưởng Phòng Nội vụ huyện Việt Yên nói: "Hai năm nay, xã Trung Sơn có sự tiến bộ rõ nét, nằm trong tốp đầu của huyện về công tác cải cách hành chính”.
Tại bộ phận một cửa UBND phường Lê Lợi (TP Bắc Giang), cán bộ thường có mặt trước giờ làm việc, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của công dân đến giải quyết thủ tục hành chính (TTHC).Được biết phường Lê Lợi là cơ sở triển khai hiệu quả mô hình trao giấy đăng ký kết hôn tại các đám cưới văn minh. Đến nay đã có 52 cặp vợ chồng được trao giấy đăng ký theo hình thức này. Nhiều thủ tục hành chính được rút ngắn thời gian giải quyết, tạo thuận lợi tối đa cho tổ chức, công dân.
Tại các trung tâm y tế cấp huyện, bệnh viện tuyến tỉnh và bệnh viện chuyên khoa, phong cách, thái độ phục vụ của nhân viên y tế đã đổi mới nhiều.Bà Nguyễn Thị Tịu (70 tuổi), phường Dĩnh Kế (TP Bắc Giang) đến khám bệnh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh nói: "Bệnh viện giờ sạch đẹp, hiện đại. Các y bác sĩ tận tình, cởi mở khác hoàn toàn những năm trước đây”.
Có thể thấy, thái độ giao tiếp, tác phong phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã có tiến bộ rõ rệt. Khảo sát tại một số nơi như: Phường Trần Phú, Hoàng Văn Thụ (TP Bắc Giang); xã Ninh Sơn, thị trấn Bích Động (Việt Yên); thị trấn Cao Thượng (Tân Yên); xã Tân Hưng (Lạng Giang)… đều dễ dàng nhận thấy cán bộ, công chức có thái độ niềm nở, thân thiện, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi để người dân hoàn thành TTHC.Bên cạnh đó, việc đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất đã góp phần làm cho bộ mặt công sở khang trang, hiện đại. Nhiều nơi trang bị đầy đủ máy điều hòa, quạt mát, ghế ngồi phục vụ người dân, doanh nghiệp đến giao dịch.
Cùng đó là bảng, biển hướng dẫn được lắp đặt ở những nơi dễ tiếp cận; hộp thư góp ý, số điện thoại lãnh đạo xã được treo công khai. Nỗ lực của cấp ủy, chính quyền các cấp trong CCHC đã góp phần nâng cao hơn tính công khai, minh bạch, dân chủ của bộ máy.
KỲ 2: CÁN BỘ TỐT LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
Với quyết tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Giang về cải cách hành chính (CCHC), các cơ quan của tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp tăng cường kỷ cương, đạo đức công vụ, xây dựng văn hóa công sở. Bước đầu cho thấy sự chuyển biến tích cực nhưng để đáp ứng kỳ vọng thì cần có giải pháp căn cơ, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên vàcấp bách.
Chưa tuân thủ quy định
Quy tắc ứng xử, quy trình giải quyết công việc được công khai, minh bạch, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức, viên chức nắm chắc và tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên thực tế khảo sát ở một vài nơi vẫn còn những cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu; có tình trạng "trên nóng, dưới lạnh”.
Trong một lần đến trụ sở xã Nam Dương (Lục Ngạn) công tác, đã quá giờ làm việc buổi chiều hơn 10 phút nhưng chỉ có lác đác vài cán bộ làm việc; bộ phận một cửa đã mở song không có cán bộ trực.Anh Chu Văn Tuân, thôn Biềng, xã Nam Dương nói: "Cửa mở mà người đi đâu hết, không biết đợi đến khi nào?” Xung quanh anh Tuân cũng có một số người dân ngồi đợi.
Trong vai người dân đến làm thủ tục chứng thực bản sao chứng minh nhân dân tại bộ phận một cửa xã Chu Điện (Lục Nam), tôi được cán bộ một cửa giới thiệu sang phòng bên gặp đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã để xin chữ ký lãnh đạo, sau đó quay lại gặp cán bộ kế bên đóng dấu và nộp phí.
Việc cán bộ một cửa không thực hiện đúng quy trình giải quyết thủ tục chứng thực cho công dân là một lỗ hổng, nguy cơ xảy ra việc tráo giấy tờ phục vụ mục đích cá nhân, vi phạm pháp luật. Cũng tại xã Chu Điện, việc trả biên lai đóng phí cho người dân khi làm thủ tục hành chính cũng chưa theo quy định.
Qua tìm hiểu thực tế, ý thức, thái độ ứng xử quan liêu, chưa đúng mực của một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn xảy ra. Một số nơi vắng mặt cán bộ, công chức trong giờ hành chính; nơi có cán bộ thì lại làm việc riêng, thậm chí hút thuốc lá trong phòng làm việc.Một lần đến UBND xã Thái Đào (Lạng Giang) trong giờ hành chính, chúng tôi bắt gặp một cán bộ, tay soạn tài liệu mà trên miệng vẫn phì phèo điếu thuốc. Tình trạng cán bộ một cửa nói chuyện riêng, nói chuyện điện thoại kéo dài khi tiếp người dân đến làm thủ tục cũng không hiếm.
Thực tế việc cán bộ, công chức không tuân thủ quy trình làm việc, nội quy công sở như trên không chỉ làm xấu đi hình ảnh cơ quan nhà nước mà còn gây phiền hà cho người dân, dẫn đến những bức xúc kéo dài.
Nhiều lần đến bộ phận một cửa huyện Yên Dũng để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá, anh Nguyễn T (Yên Dũng) cho hay, gần một tháng, mỗi lúc nhân viên bộ phận một cửa UBND huyện lại hẹn một ngày khác để trả kết quả, khiến anh đi lại rất vất vả.Sau khi sự việc được phản ánh trên mạng xã hội thì UBND huyện đã có buổi gặp gỡ, trao đổi và tiếp thu kiến nghị của công dân; yêu cầu các bộ phận liên quan rút kinh nghiệm, khắc phục tồn tại, hạn chế. Ngày hôm sau anh nhận được kết quả giải quyết thủ tục hành chính.
Khó khăn trong xác minh, xử lý vi phạm
Sau các đợt kiểm tra công vụ, tinh thần phục vụ, kỷ cương hành chính của các cơ quan, đơn vị có sự chuyển biến nhất định, tuy nhiên quá trình triển khai còn phát sinh một số hạn chế.Điển hình như vụ việc tại xã Quế Nham hồi tháng 8-2019, mặc dù thành viên tổ kiểm tra ghi nhận bằng hình ảnh về công chức có biểu hiện mặt đỏ, nghi uống rượu bia trong giờ làm việc nhưng để xử lý kỷ luật cán bộ này lại là câu chuyện khó với huyện Tân Yên.Lý giải về sự việc này, ông Giáp Văn Tuấn, Phó trưởng Phòng Nội vụ Tân Yên cho hay, khó nhất là tổ kiểm tra không có thiết bị đo nồng độ cồn để xác định xem cán bộ có vi phạm hay không mà chỉ bằng cảm quan đánh giá. Do đó khi xem xét mức độ vi phạm, hình thức kỷ luật cũng gặp nhiều khó khăn.
Về vấn đề này, ông Ngô Minh Hạnh, Phó trưởng Phòng Nội vụ huyện Lạng Giang nêu ý kiến: Khi phát hiện cán bộ, công chức có biểu hiện bên ngoài như: Mặt đỏ, nói to, nồng nặc mùi rượu bia, hoặc ngủ trong phòng làm việc thì việc thiết lập biên bản bản xử lý vi phạm có thể áp dụng theo Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức, Nghị định số 34 ngày 17-5-2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức.
Như vậy, dù quyết tâm duy trì kỷ cương hành chính của các cấp qua các văn bản chỉ đạo thực hiện và các biện pháp kiểm tra, giám sát nhưng khi hành lang pháp lý về nội dung này chưa cụ thể thì việc áp dụng chế tài của cơ quan chức năng sẽ gặp lúng túng trong xử lý vi phạm. Thực tế cho thấy, dù tỉnh đã có những quy định, quy chế cho việc định hình văn hóa công sở nhưng việc thực thi ở không ít nơi còn chưa nghiêm túc, vẫn còn hiện tượng xuề xòa, cả nể hoặc hình thức trong triển khai thực hiện, kiểm tra, nhắc nhở, phê bình.Một số cán bộ, công chức, viên chức cho rằng công việc quá nhiều, áp lực lớn nên không chú ý trong thái độ, lời nói khi tiếp xúc với nhân dân.
Phát huy vai trò nêu gương
Kiên quyết, nghiêm túc xử lý vi phạm là cách làm của Bắc Giang trong chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức. Bên cạnh việc bản thân người cán bộ phải tự thân rèn luyện, tu dưỡng theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm.Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh” thì người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương cũng cần xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, giàu giá trị văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ công chức, viên chức phát huy năng lực làm việc.
Thực tế cho thấy nơi nào người đứng đầu quan tâm, nêu gương thì nơi ấy mọi hoạt động đều sôi nổi, kết quả chuyên môn tốt, kỷ cương nền nếp công vụ nghiêm túc. Ngược lại, nếu người đứng đầu ít quan tâm hoặc bản thân không gương mẫu thì rất khó để xây dựng tập thể vững mạnh.Ông Mai Sơn, Bí thư Thành ủy Bắc Giang cho biết: "Ngoài việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, TP còn đẩy mạnh tuyên truyền xây dựng nếp sống văn hóa, trật tự, kỷ cương, văn minh đô thị gắn với Chương trình số 02 "Xây dựng nếp sống văn hóa người dân TP Bắc Giang, giai đoạn 2015-2020 và những năm tiếp theo”. Qua đó tạo môi trường thân thiện, văn minh, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn”.
Tại huyện Lạng Giang, huyện chỉ đạo các xã, thị trấn ưu tiên trích kinh phí lắp đặt camera ở bộ phận một cửa, tích cực phát huy vai trò giám sát của MTTQ, các đoàn thể chính trị- xã hội và nhân dân, nắm bắt, đánh giá mức độ hài lòng của nhân dân với chất lượng phục vụ của cơ quan công quyền.
Tỉnh Bắc Giang đã ban hành những quy định, quy chế để điều chỉnh các hành vi lệch chuẩn, xây dựng văn hóa công sở. Thế nhưng, để việc xây dựng hình ảnh trở thành nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, công chức, viên chức thì không phải là câu chuyện ngày một ngày hai.Giải pháp hữu hiệu là đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm tạo chuyển biến tích cực về nhận thức và ý thức trong mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu các cấp đối với hiệu quả, chất lượng thực thi các nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị; tăng cường kỷ luật hành chính gắn với thực hiện tốt các quy tắc ứng xử. Đi đôi là tăng cường thanh tra, kiểm tra đột xuất về trách nhiệm thực thi công vụ, đạo đức nghề nghiệp.Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh kêu gọi người dân đồng hành, ủng hộ trong việc giám sát, lên tiếng trước những hành vi, việc làm không đúng quy chế văn hóa công sở, trách nhiệm, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Qua thực tế kiểm tra, xử lý vi phạm, nhiều ý kiến kiến nghị cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy định mức độ hành vi vi phạm và chế tài xử lý trong việc thực hiện văn hóa công sở và thực thi nhiệm vụ, công vụ cụ thể, rõ ràng hơn. Có cơ chế khuyến khích thành viên các tổ kiểm tra công vụ.Trang bị các thiết bị phục vụ hoạt động kiểm tra như: Máy đo nồng độ cồn, máy ghi âm, máy quay phim, chụp ảnh cho tổ kiểm tra, bảo đảm thu thập thông tin, hình ảnh xác thực, làm căn cứ phục vụ việc xem xét, xử lý vi phạm khi cần thiết.
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID-19
Giải A, năm 2020
Nhóm tác giả: Trịnh Lan, Thế Đại
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: ĐỐI MẶT THÁCH THỨC
D |
ịch Covid-19 đang tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp của nước ta. Tại Bắc Giang, địa phương có vùng sản xuất hàng hóa tập trung cũng bị chi phối đáng kể. Không xuất khẩu được cộng với cung vượt cầu nên hiện nay giá nhiều mặt hàng nông sản đang "tụt dốc”. Doanh nghiệp (DN) xuất khẩu hàng hóa, cung ứng vật tư nông nghiệp cũng gặp trở ngại. Thực tế này khiến nông dân và DN đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Hàng nông sản rớt giá, tồn kho
Chiều cuối tháng 2, chúng tôi về thôn Thọ Điền 1, xã Ngọc Thiện (Tân Yên). Dọc đường bê tông nội đồng là những đống ớt vừa được nhổ lên vứt chỏng chơ, trên cành vẫn còn nhiều quả chín đỏ, quả non và hoa khiến người chứng kiến không khỏi xót xa. Bà Nguyễn Thị Thái vừa đánh bật từng gốc ớt tại ruộng vừa nói: "Bây giờ một cân ớt chỉ bán 3-4 nghìn đồng nhưng phải nhặt sạch cuống mới được giá như vậy. Tính ra vài tạ ớt thu về chỉ mấy trăm nghìn đồng nên tôi nhổ đi để trồng ngô”. Theo bà Thái, tầm này mọi năm, bình quân 30-35 nghìn đồng/kg ớt, vì thế phải đến cuối tháng 3 Âm lịch người dân mới phá ớt để trồng cây mới. Theo đại diện lãnh đạo xã Ngọc Thiện, toàn xã có hơn 100 ha ớt. Hiện nay, nông dân phá bỏ hơn 50% tổng diện tích cây trồng này, chuyển sang gieo rau, màu khác.
Tương tự, tại các vùng trồng ớt khác thuộc địa bàn huyện Tân Yên, Việt Yên, Lạng Giang và Lục Nam cũng chung tình cảnh này. Một kg ớt dịp này giá chỉ bằng 1/3 so với trước Tết, 1/10 so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều năm trồng ớt để phát triển kinh tế, người dân xã Nghĩa Phương (Lục Nam) chia sẻ, lần đầu tiên giá ớt thấp như bây giờ. Vì vậy, không còn mấy người mặn mà với cây trồng này.
Thời điểm này, những người chăn nuôi thủy cầm cũng đang chịu lỗ vì giá xuống thấp, thu không đủ chi. Trang trại nuôi vịt của gia đình anh Phạm Văn Phương, thôn Trung Tâm, xã Hợp Thịnh (Hiệp Hòa) mỗi lứa nuôi hàng nghìn vịt lai. Tưởng chừng đàn vật nuôi được bán sẽ cho anh khoản tiền lớn sau bao ngày chăm bẵm. Ai dè, đến lúc xuất chuồng, giá vịt lại "lao dốc”, còn 17 nghìn đồng/kg. Bán xô cả đàn, anh lỗ gần 80 triệu đồng. Anh Phương cho biết: "Vịt đến lứa là phải xuất chuồng, nếu không càng nuôi càng lỗ. Với 3 nghìn con vịt mà nuôi cầm chừng thì mỗi ngày chi phí vài triệu đồng tiền thức ăn, chúng tôi không thể cáng nổi nên rẻ cũng phải bán”.
Bắc Giang hiện có hơn 230 trang trại, hộ nuôi gà và hàng chục hộ nuôi vịt sinh sản với tổng lượng trứng trên 200 nghìn quả mỗi ngày. Giá trứng thương phẩm rẻ chỉ bằng một nửa so với trước, từ 1,5-1,7 nghìn đồng/quả. Ngoài ra, Bắc Giang còn có 30 cơ sở ấp nở và kinh doanh gà, vịt giống. Giá trứng, giá con giống gia cầm, thủy cầm thấp nên các cơ sở này cũng đang gặp bất lợi. Đơn cử cơ sở ấp nở thủy cầm của gia đình anh Ngô Quang Luyến, thôn Tam Bình, xã Ngọc Thiện (Tân Yên) cũng đang hoạt động cầm chừng để giữ khách, chờ giá lên. Lò của anh mỗi ngày ấp nở 5 nghìn vịt con. Hiện giá vịt giống chỉ được 4-5 nghìn đồng/con nên cứ sau một phiên bán vịt (4 ngày) gia đình anh Luyến lỗ 80 triệu đồng. Vậy nhưng, những năm qua để có nguồn cung duy trì 10 lò ấp hoạt động thường xuyên, gia đình anh liên kết với khoảng 20 hộ nuôi vịt sinh sản trong và ngoài xã. Do đó, dù lỗ anh vẫn nhập trứng cho các hộ. Anh Luyến chia sẻ: "Làm ăn có lúc được lúc mất. Nếu giờ mình không nhập trứng thì người nuôi thêm khó khăn, có thể bỏ nghề nên tôi phải chia sẻ lúc này mới sản xuất, kinh doanh bền vững được”.
Sở dĩ nông sản khó tiêu thụ là do các lễ hội, cuộc gặp mặt, liên hoan… đầu xuân giảm mạnh; nhiều hàng quán, khu du lịch vắng khách bởi người dân lo ngại dịch Covid- 19 lan rộng. Điều này đã ảnh hướng lớn đến việc tiêu thụ hàng hóa, trong đó có nông sản của Bắc Giang. Các trường học, nhất là những trường tổ chức bếp ăn bán trú cũng nghỉ học là một trong yếu tố chính khiến trứng ở nhiều trang trại xuống thấp, khó tìm đầu ra. Khảo sát tại Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghiệp (Bộ Công Thương); Trường Tiểu học Ngô Sĩ Liên (TP Bắc Giang), mỗi tuần 2 trường này chế biến từ 3,5-4 nghìn quả trứng cho học sinh, sinh viên… Như vậy, việc học sinh nghỉ học đồng loạt trong vài tuần qua là một trong nguyên nhân khiến lượng trứng tiêu thụ giảm đáng kể. Riêng với vịt thương phẩm, ngoài yếu tố lo ngại dịch bệnh còn do cung vượt cầu. Đàn vịt tăng nhanh ở các xã vùng trũng, ven sông. Chỉ tính tại Hiệp Hòa, tổng đàn vịt của huyện hơn 400 nghìn con, tăng gần 100 nghìn con so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu hàng hóa, cung ứng vật tư gặp khó
Do các cửa khẩu với Trung Quốc hạn chế xuất, nhập hàng qua biên giới vì dịch Covid-19 nên giá nông sản chuyên xuất khẩu đi Trung Quốc cũng rẻ, tiêu thụ không mấy dễ dàng như: Dưa hấu, sầu riêng, thanh long của các tỉnh phía Nam. Tại Bắc Giang, có nhiều quầy trưng biển giải cứu dưa hấu, sầu riêng cho bà con. Hội DN trẻ, Huyện Đoàn Hiệp Hòa, Thành Đoàn TP Bắc Giang cũng chung tay mua hàng chục tấn dưa hấu ủng hộ nông dân. Ông Nguyễn Văn Nam, Giám đốc HTX Sản xuất và Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Vinh Quang, xã Cao Xá (Tân Yên) cho biết, trước đây, mỗi tháng HTX xuất khoảng 80 tấn ớt sang nội địa Trung Quốc song gần 2 tháng nay gặp trở ngại. 35 tấn hàng đã mua của bà con, HTX phải bảo quản trong kho lạnh. Qua mối liên hệ, sự giúp đỡ của bạn bè, HTX mới xuất được hàng sang thị trường Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc). Một phần ớt còn lại của HTX được nghiền nhỏ, cung cấp cho cơ sở sản xuất tương ớt trong nước. Hay HTX Nông nghiệp tổng hợp Lục Nam hiện cũng gặp cảnh tương tự. Được biết, mỗi tuần HTX này xuất 20 tấn ớt sang Trung Quốc nhưng gần tháng qua không bán được cân nào trong khi vẫn phải thu mua ớt cho bà con. Ông Hoàng Văn Diện, Giám đốc HTX cho hay, từ khi có dịch Covid-19, HTX của ông đã bị lỗ hơn 1 tỷ đồng vì ớt rớt giá. Điều ông Nam và ông Diện lo lắng nữa là toàn bộ chai, lọ đóng gói phải nhập từ Trung Quốc. Nếu dịch bệnh cứ tiếp diễn thì bao bì bảo quản sẽ không đủ để phục vụ sản xuất lâu dài. Vì thế, các HTX đang tính chuyển sang phương thức đóng gói bằng thùng nhựa hoặc gỗ để thay thế.
Dù không xuất khẩu trực tiếp nông sản sang Trung Quốc nhưng Công ty cổ phần chế biến Thực phẩm xuất khẩu G.O.C, xã Tân Dĩnh (Lạng Giang) đang thiếu bao bì đóng gói hàng hóa. Một tháng qua, DN phải đàm phán, điều chỉnh lịch xuất hàng cho đối tác vì chai, lọ nhập về chậm. Ông Trần Anh Tuấn, Giám đốc điều hành Công ty thông tin, mỗi tháng, đơn vị nhập hàng trăm nghìn lọ từ Trung Quốc để đóng gói dưa chuột, ớt chế biến xuất khẩu. Nếu kéo dài tình trạng như hiện nay thì hoạt động sản xuất có thể đình trệ vào giữa tháng 3, vì đây là thời điểm nông sản thu hoạch rộ. Được biết, G.O.C là DN chế biến, xuất khẩu nông sản quy mô lớn nhất tại tỉnh, bình quân xuất khẩu 300 tấn nông sản/tháng. Để bảo đảm nguồn hàng, DN liên kết với hàng nghìn hộ sản xuất tại địa phương và các tỉnh, TP lân cận xây dựng vùng nguyên liệu. Điều này có nghĩa là nếu việc sản xuất, kinh doanh của DN có biến động sẽ kéo theo hàng nghìn nông dân cũng bị xáo trộn.
Chưa có thống kê cụ thể song nguyên liệu để sản xuất thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trong nước có nguồn gốc từ Trung Quốc khá lớn. Nếu sâu bệnh trên cây trồng diễn biến phức tạp thì nguy cơ cao thuốc BVTV không đủ cung cấp cho thị trường, giá bán tăng, đẩy chi phí đầu vào sản xuất lên cao. Ông Lê Văn Thùa, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Việt Thắng - DN duy nhất tại tỉnh sản xuất, sang chai đóng gói thuốc BVTV chia sẻ, 60% nguyên liệu Công ty phải nhập từ Trung Quốc nên rất lo vì thiếu nguồn sản xuất thuốc thành phẩm. Hiện chưa vào thời kỳ đỉnh điểm chăm sóc cây trồng nhưng nếu trong vòng hơn một tháng nữa mà cửa khẩu với Trung Quốc hạn chế thông quan thì Công ty sẽ không còn hàng để cung ứng.
Đánh giá chung cho thấy, nhiều DN xuất khẩu nông sản cũng như sản xuất vật tư nông nghiệp nhập nguyên liệu từ Trung Quốc đang đối mặt với không ít trở ngại. Riêng DN cung ứng phân bón thì thắc thỏm âu lo vì đã cấp phân bón trả chậm cho nông dân, nếu nông sản không tiêu thụ được, nhất là nông sản xuất khẩu thì khó thu hồi vốn. Dịch Covid- 19 như "cơn sóng ngầm”, âm thầm dâng cao, tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
Boox: Nhiều DN xuất khẩu nông sản cũng như sản xuất vật tư nông nghiệp nhập nguyên liệu từ Trung Quốc đang đối mặt với không ít trở ngại. Riêng DN cung ứng phân bón thì thắc thỏm âu lo vì đã cấp phân bón trả chậm cho nông dân, nếu nông sản không tiêu thụ được, nhất là nông sản xuất khẩu thì khó thu hồi vốn.
KỲ II: MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC VÀ XUẤT KHẨU
Bắc Giang chưa bước vào thời kỳ cao điểm chăm sóc cây trồng cũng như thu hoạch nông sản xuất khẩu nhưng sản xuất nông nghiệp đã bước đầu bị tác động gián tiếp bởi "cơn bão” Covid-19. Để hạn chế thiệt hại rất cần có nhữnggiải pháp trước mắt, lâu dài nhằm phát triển nông nghiệp bền vững.
Nông sản chủ lực phát huy lợi thế
Qua các dẫn chứng và phân tích ở phần trước, có thể thấy, dịch Covid -19 đã tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Vì lo ngại dịch Covid -19 tiếp tục xâm nhập vào nước ta nên Chính phủ đã hạn chế xuất, nhập khẩu với Trung Quốc. Tuy nhiên, chính điều này đã giúp chúng ta kiểm soát, hạn chế lượng lớn hàng nhập lậu như: Rau, củ, quả… nhập về từ nước bạn. Do đó nhiều mặt hàng nông sản chủ lực của tỉnh gồm rau xanh, thịt lợn đã tăng giá ở mức cao.
Nếu như những năm trước, vào dịp giêng, hai, rau xanh thường rất rẻ. Trái lại, năm nay, từ sau Tết đến nay giá rau luôn đạt mức cao. Đơn cử như rau cần Hoàng Lương (Hiệp Hòa) giá tăng gấp 10 lần. Bình quân mỗi sào cần hiện thu lãi khoảng 25 triệu đồng. Ở vùng chuyên canh rau thuộc các xã Cảnh Thụy, Tiến Dũng (Yên Dũng); Thái Đào (Lạng Giang), Song Mai (TP Bắc Giang); Chu Điện, Bảo Đài (Lục Nam), nông dân thu rau đến đâu, thương lái mua hết đến đó với giá cao. Bà Nguyễn Thị Bẩy, xã Chu Điện- chuyên thu gom rau cung cấp cho thị trường Thái Nguyên, Quảng Ninh nói: "Dạo này nhiều khách đặt song tôi không đủ hàng cung cấp. Để giữ mối làm ăn, tôi phải chuyển cho các bạn buôn một phần, bởi rau khan quá”.
Hiện khoai tây cũng có giá khá cao, từ 15-20 nghìn đồng/kg. Một số người dân ở xã Cảnh Thụy đã năng động tích trữ khoai thương phẩm trong kho lạnh. Do chênh lệch giá, nhiều hộ thu bộn tiền. Anh Nguyễn Văn Tùng, chủ kho lạnh tại xã Cảnh Thụy cho hay: "Vụ đông vừa qua, khoai tây không được giá như năm trước nên sau khi thu hoạch tôi trữ trong kho lạnh. Rất may, giờ đây khoai tăng giá nên với hơn 200 tấn, tôi thu thêm gần một tỷ đồng”.
Cùng với sản phẩm trồng trọt, gà thịt các loại của Bắc Giang vẫn tiêu thụ ổn định. Ông Nguyễn Văn Đông, Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT Yên Thế cho biết, vài tháng nay, giá gà trong huyện dao động từ 57-90 nghìn đồng/kg (tùy loại); trừ chi phí, người nuôi lãi khoảng 15-20 triệu đồng/một nghìn con.
Củng cố chất lượng hàng hóa, khơi thông thị trường nội địa
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, nhằm giảm thiểu thiệt hại về sản xuất, một số tổ chức, cá nhân đã chủ động thực hiện các giải pháp. Về phía người chăn nuôi vịt đã tạm ngừng vào đàn mới. DN chế biến nông sản đang tìm nguồn và đơn hàng mới ngoài đối tác Trung Quốc. Đó là trong ngắn hạn, nếu dịch bệnh Covid-19 kéo dài thì kinh tế nông nghiệp của Bắc Giang sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Viễn cảnh, nếu dịch Covid-19 tiếp diễn tới thời điểm thu hoạch vải thiều thì chắc chắn Bắc Giang sẽ khó tiêu thụ do thương nhân Trung Quốc không thể sang thu mua. Trong khi dự báo năm nay vải sẽ được mùa. Thực tế, từ nhiều năm qua, lượng vải thiều của Bắc Giang xuất sang Trung Quốc chiếm tỷ lệ cao.
Theo ông Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT, ngành đang triển khai tổ chức lại sản xuất, không để nguồn cung quá lớn. Các địa phương cần giảm diện tích, sản lượng các loại hàng có thể xuất khẩu sang Trung Quốc như: Dưa hấu, sắn, gia cầm… Theo đó, người chăn nuôi không nên vào đàn ồ ạt bởi ngoài việc ảnh hưởng tiêu thụ do dịch Covid-19 thì dịch cúm gia cầm có nguy cơ cao xuất hiện tại tỉnh. Bên cạnh đó, ngành chức năng cần phối hợp, tăng cường kiểm soát lưu thông thị trường, không để gà giống, gà thương phẩm mang mầm bệnh vào (kể cả đi qua) địa bàn Bắc Giang. Với điều kiện hiện nay, tất cả hàng nông sản của Bắc Giang sẽ tập trung cao cho thị trường nội địa thông qua các kênh phân phối. Bắc Giang có thuận lợi là nằm sát các TP đông dân như: Hà Nội, Thái Nguyên, Quảng Ninh, có nhu cầu thực phẩm lớn. Nhằm tạo được chỗ đứng trong thị trường nội địa, bắt buộc hàng nông sản trong tỉnh phải bảo đảm về chất lượng. Năm nay sẽ là năm trọng tâm nâng cao chất lượng nông sản.
Để đạt mục tiêu đặt ra, ngành nông nghiệp sẽ huy động nguồn lực, tập trung chỉ đạo, tập huấn, xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện để nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm (ATTP) cho nông sản. Xây dựng kế hoạch tổng thể về nâng cao chất lượng nông sản của Bắc Giang; khâu nối các chi cục trực thuộc, Phòng Nông nghiệp và PTNT các huyện nhằm tạo bước đột phá về chất lượng ATTP. Không để vùng trọng điểm sản xuất nông sản hàng hóa của cả nước lại chỉ có 42% sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm.
Về xuất khẩu vải thiều, Sở Nông nghiệp và PTNT sẽ phối hợp với các sở, ngành liên quan mở rộng đến các thị trường mới. Cụ thể, Sở Nông nghiệp, Sở Công Thương xây dựng kế hoạch sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Nếu vải thiều của Bắc Giang vào được thị trường Nhật Bản thì đồng nghĩa cơ hội tiếp cận các thị trường khác sẽ được mở ra. Cùng đó, Bắc Giang cần tập trung cho tiêu thụ vải tại thị trường trong nước. Hiện ngành nông nghiệp vẫn chỉ đạo sản xuất đồng đều, tránh hẫng vụ, đặc biệt là trong chăn nuôi gia cầm vì Bắc Giang là vùng sản xuất gà lớn, cung cấp cho thị trường cả nước, đồng thời phòng, chống dịch bệnh tốt để tránh bị thiệt hại kép.
Trên tinh thần chủ động, Sở Công Thương đã xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại tiêu thụ vải thiều và các sản phẩm đặc trưng, chủ lực của tỉnh ở trong và ngoài nước. Đồng thời đề nghị Bộ Công Thương hỗ trợ tìm các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ vải thiều cho năm 2020 và những năm tiếp theo. Cụ thể, về tiêu thụ tại thị trường trong nước: Mời gọi, kết nối các hệ thống phân phối, bán buôn và bán lẻ, hệ thống kinh doanh các cửa hàng tiện ích, chợ đầu mối, các thương nhân tiêu thụ nông sản… tham gia tiêu thụ vải thiều nói riêng và các sản phẩm chủ lực của tỉnh Bắc Giang nói chung; đẩy mạnh tiêu thụ nông sản ở thị trường nội địa trong tình hình hiện nay, hướng tới cơ cấu thị trường hợp lý, đa dạng giúp quả vải có được thị trường tiêu thụ ổn định và bền vững.
Về xuất khẩu, tiếp tục hỗ trợ các hoạt động dự báo, xúc tiến tiêu thụ tại thị trường truyền thống (Trung Quốc) và các thị trường tiềm năng. Mời gọi, kết nối các tập đoàn phân phối của thế giới (Aeon, Walmart, Mega Market, Lotte, Emart, Central Group,…) tham gia tiêu thụ vải thiều của tỉnh Bắc Giang; hỗ trợ khảo sát, tìm kiếm thị trường, giúp quảng bá sản phẩm vải thiều và thông tin về cơ chế chính sách, điều kiện, tiêu chuẩn (bao bì, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc,…) để xuất khẩu quả vải sang các thị trường khó tính (Nhật Bản, EU, Mỹ, Úc,…), thị trường tiềm năng (Nga, Trung Đông, Ấn Độ, Myanma…).
Ngoài những giải pháp trên, để giúp các hộ gia đình, DN vượt khó cần thêm một số giải pháp khác. Về vốn, ngành ngân hàng cần triển khai ngay việc hỗ trợ lãi suất, giảm nợ, giãn nợ cho hộ sản xuất, kinh doanh bị thiệt hại do tác động của dịch Covid-19. Ngành thuế cho hoãn hoặc gia hạn nộp thuế. Bảo hiểm xã hội quan tâm xem xét cho chậm nộp các loại bảo hiểm để DN có vốn tái tạo sản xuất, kinh doanh, trả lương người lao động. Chính quyền, ngành chức năng tổ chức gặp mặt, lắng nghe kiến nghị đề xuất của DN để tháo gỡ khó khăn; thực hiện đồng bộ các giải pháp về quản lý thị trường bảo đảm chất lượng vật tư phân bón cung ứng cho nông dân. Thực tế, dịch Covid-19 khiến kinh tế nông nghiệp của Bắc Giang gặp khó, chẳng khác gì "cơn bão” đang ập đến. Hy vọng từ trong khó khăn đó, chúng ta lại có cơ hội để cơ cấu lại sản xuất, củng cố chất lượng hàng nông sản.
Intro: "Chúng ta phải điều chỉnh từ sản xuất đến thị trường và chất lượng hàng nông sản. Hàng nông sản phải đi từ gốc, đó là sản xuất an toàn, điều chỉnh quy mô cho phù hợp với thị trường, đặc biệt là trong tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp như hiện nay”.
Ông Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT.
NGÂN HÀNG BÒ CHO NGƯỜI NGHÈO LIỆU CÓ CÒN PHÙ HỢP?
Giải A, năm 2020
Nhóm tác giả: Thu Hà, Bích Ngọc,
Hữu Tuấn, Ngọc Linh
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
- Từ khi được nhận bò, cán bộ phấn khởi, người dân phấn khởi…
- Nuôi bò thì cũng có hiệu quả…
- Để cho người dân kiên trì theo đuổi thì thời gian lâu quá…
- Một con bò người ta cũng mất công đi chăn dắt, vì vậy người ta tính là người ta sẽ đi làm công nhân.
- Chúng tôi tìm các hộ để trao bò nhưng không có ai nhận…
- Đâm lao thì phải theo lao, tôi vẫn phải chăn nuôi, không thể để nó đói…
- Không hiệu quả, thậm chí còn nghèo hơn…
L |
à hộ phụ nữ đơn thân, hoàn cảnh khó khăn ở thôn Một xã Phương Sơn, huyện Lục Nam, năm 2015, chị Trịnh Thị Nhung được Hội Chữ Thập đỏ (CTĐ) của xã trao tặng một con bò. Sau 5 năm chăm sóc, 2 bê con đã ra đời, con đầu tiên, chị trao trả lại cho dự án, con bê thứ 2 chị bán được 15 triệu đồng. Có nguồn thu từ bò, chị Nhung đầu tư một phần vào chăn nuôi gà. Đến nay, từ chỗ là hộ nghèo của thôn Một, chị Nhung đã vươn lên thoát nghèo và đang từng bước ổn định cuộc sống.
PV: Chị Trịnh Thị Nhung, Thôn Một, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam
(Cũng đẻ được 2 con, con thứ hai bán được 15 triệu, con đầu trả, cũng gọi là tích cóp được đồng vốn, kinh tế gia đình cũng ổn định được một tí…)
PV: Chủ tịch Hội CTĐ xã Phương Sơn, huyện Lục Nam
(Chúng tôi chọn được 10 hộ chăn bò đều là hộ có đủ điều kiện như: chuồng, trại, sức khỏe, quĩ đất… mọi người đều có trách nhiệm, ai cũng thích…)
Dự án Ngân hàng Bò do Trung ương Hội CTĐ Việt Nam phát động và được triển khai ở tỉnh Bắc Giang từ năm 2011, khi mà sản xuất nông nghiệp vẫn chưa phát triển, nhất là các hộ nghèo, sức cày, sức kéo của họ chủ yếu trông vào con bò, con trâu. Vì vậy, việc trao cho hộ nghèo một con bò, để vừa làm tư liệu sản xuất, vừa là tài sản tích lũy, không khác nào mang đến cho họ cả cơ nghiệp.
PV: Bà Lê Thị Duyên, Chủ tịch Hội CTĐ tỉnh
(Mục tiêu mà Hội CTĐ đặt ra là làm thế nào phát triển ngân hàng bò từ năm 2011 đến nay sẽ đạt 1000 con bê cái trong toàn tỉnh, nhằm hỗ trợ cho các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, giúp họ vươn lên thoát nghèo bền vững…)
Mục tiêu là vậy, thiết thực và nhân văn, nhưng cùng với thời gian và sự phát triển không ngừng của xã hội, liệu sau 10 năm, dự án này có còn phù hợp?
Một năm trước, khu đất trống này là nơi chị Nguyễn Thị Lụa, một phụ nữ nghèo, khuyết tật của thôn Đông Thịnh dùng để nuôi bò sau khi được hội CTĐ của xã Tam Dị, huyện Lục Nam trao tặng. Nhưng chỉ sau 1 năm, chị Lụa đã phải xin chính quyền cho bán bò đi để chuyển sang một nghề mới hiệu quả hơn, cho dù thu nhập của nghề này mỗi ngày cũng chỉ vẻn vẹn 20 đến 30.000 đồng.
PV: Chị Nguyễn Thị Lụa, Thôn Đông Thịnh, xã Tam Dị, huyện Lục Nam
(Bò nhà tôi lúc ấy ăn phải thuốc trừ cỏ, bò sùi bọt mép ra, cho nên tôi phải bán. Với lại tôi không có tay, nuôi bò khó khăn nên tôi phải chuyển sang bán hàng tạp hóa ở trường mầm non…)
Không chỉ bán bò, tại địa bàn xã Tam Dị, nơi chị Lụa sinh sống, trong tổng số 5 con bò dự án trao cho 5 hộ dân, đến nay, ngoài 1 con bị bán đi, 3 con bò đã chết, con duy nhất còn lại thì 3 năm qua không thấy sinh sản. Việc triển khai dự án Ngân hàng bò ở xã Tam Dị vì vậy mà sắp trở nên trắng tay.
PV: Anh Lê Văn Trọng, Chủ tịch Hội CTĐ xã Tam Dị, huyện Lục Nam
(Kết quả là 5 con bò của 5 gia đình đều như nhau, tức là đều ăn phải cỏ có thuốc bảo vệ thực vật, ngày càng gầy yếu đi, nên khi bán giá bán thấp, chỉ được mấy triệu một con. Hiện tại trên địa bàn xã chỉ còn 1 con duy nhất, tuy nhiên con này gia đình đã lấy giống rất nhiều lần nhưng không đẻ được…)
Từ 40 con bò ban đầu, sau 10 năm, tính cả số bò con được sinh ra, huyện Lục Nam chỉ còn lại 33 con.
Trong khi đó, thực hiện dự án Ngân hàng bò, huyện Hiệp Hòa cũng vận động và nhận hỗ trợ được 65 con bò giống, trao cho 65 hộ nghèo đặc điệt khó khăn trên địa bàn, nhưng đến nay, số bò còn lại cũng chỉ còn 55 con.
PV: Ông Nguyễn Văn Trung, Chủ tịch Hội CTĐ huyện Hiệp Hòa
(Ban đầu ban giao ngân hàng bò cho hộ nghèo, nhân dân rất hào hứng vì nó tận dụng được sức cày, kéo để sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên đến thời điểm này, hiệu quả không như ngày xưa, lý do là người dân sản xuất toàn bằng máy móc, nên giờ trao bò cũng không có người nhận nữa…)
Sau gần 4 năm nuôi bò, thu nhập của bà Phạm Thị Bốn, hộ nghèo đơn thân ở Thôn Hạnh, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa chính là con bò cái này, trị giá khoảng 25 triệu đồng, sau khi con bê con tới đây sẽ được bà trao trả lại cho dự án. 25 triệu đồng trong suốt 4 năm, chưa kể chi phí mua cám cho bò ăn, mua thuốc cho bò khi ốm, ngày công của bà Bốn chỉ vào khoảng 15.000đ mỗi ngày.
Còn với người đàn ông này, sau hơn 4 năm nhận nuôi bò, nhưng con bò của ông chưa một lần sinh sản. Chán nản và thất vọng, ông đã nhiều lần đề nghị xã cho bán bò đi, nhưng nếu bán, theo qui định ông chỉ được nhận 30% giá trị của con bò, tương đương với khoảng 6 - 7 triệu đồng, với mức này, ngày công chăn bò của ông trong suốt 4 năm tính ra chưa đến 5000đ/ngày… Vậy nên, vì tiếc của, sót công, ông lại cố nuôi tiếp.
PV: Ông Nguyễn Văn Hạt, Thôn Lý Viên, xã Bắc Lý huyện Hiệp Hòa
(Tôi nuôi không thấy có hiệu quả, tôi gọi điện cho các cấp tôi trả, nhưng mà các cấp bảo lui lại, giả 30%. Tôi thấy không đáng công nên lại cố nuôi. Đến giờ tôi mong các cấp làm thế nào cho tôi đỡ thiệt…)
PV: Chị Ngô Thị Huyền, Chủ tịch Hội CTĐ xã Bắc Lý, huyện Hiệp Hòa
(Theo tôi, nếu như hỗ trợ bò kiểu này chắc chắn không thoát được nghèo, nên chuyển sang dự án nào phù hợp hơn, ngắn ngày hơn, hiệu quả hơn…)
Không dừng lại ở Lục Nam hay Hiệp Hòa, ở các huyện khác, tình trạng người dân không mấy mặn mà với dự án Ngân hàng bò cũng đã diễn ra. 710 con bò (trị giá gần 15 tỷ đồng) là số bò đã trao cho hộ nghèo tỉnh Bắc Giang trong suốt 10 năm qua. Trong đó, chỉ có 73 con bê con được sinh ra, trong khi 95 con bò đã bị chết hoặc thất thoát. Hiện cả tỉnh chỉ còn lại 615 con, giá trị tương đương 12 tỷ đồng. Quan trọng hơn, sau 10 năm mới chỉ có 73/710 hộ nghèo thoát nghèo nhờ dự án Ngân hàng bò.
Vậy là, thay vì nhân lên, phát triển rộng ra và có lãi, thì mũi tên phát triển lại theo hướng ngược lại, 3 tỷ đồng tiền vốn đã bị thất thoát, nhưng tổn thất nhiều hơn không thể đong đếm chính là mồ hôi, là công sức, là hy vọng của người nghèo trong suốt 10 năm.
PV: Anh Lê Văn Trọng, Chủ tịch Hội CTĐ xã Tam Dị, huyện Lục Nam
(Đối với những hộ đặc biệt khó khăn, nhất là hộ neo đơn, không có chỗ để chăn thả, không có thời gian để chăm sóc, sẽ nghèo đi. Hai là đã chăn bò thì không thể làm được việc gì khác nữa. Chờ bò sinh sản lại cực kỳ lâu, thời gian quay vòng rất dài, cho nên là không hiệu quả, thậm chí còn nghèo hơn…)
Đáng tiếc là những khó khăn của người nghèo và những bất cập của dự án Ngân hàng bò lại chỉ có trời biết, đất biết, người nghèo biết, cán bộ CTĐ cơ sở biết, nhưng Hội CTĐ tỉnh lại không hay biết. Trong báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình "Ngân hàng bò” tỉnh Bắc Giang (từ năm 2010 - 2020), không có chi tiết nào đề cập đến những khó khăn trên. Thậm chí, lãnh đạo Hội còn khẳng định, dự án vẫn đang phát huy hiệu quả, và cần thiết phải tiếp tục duy trì trong thời gian tới.
PV: Bà Lê Thị Duyên, Chủ tịch Hội CTĐ tỉnh Bắc Giang
(Chúng tôi sẽ tuyên truyền nhiều hơn nữa để người dân biết về giá trị nhân đạo, về việc mà họ được hưởng, và họ cần phải làm những gì. Tôi thấy là dự án Ngân hàng bò này vẫn cần phải được duy trì và phát triển…)
Từ nhận thức trên, việc triển khai thực hiện dự án Ngân hàng bò ở nhiều cấp hội cơ sở rơi vào bế tắc. Nhiều địa phương lúng túng, khó khăn khi lựa chọn đối tượng để trao bò, cũng như cách thức quản lý, giám sát để dự án bò phát huy hiệu quả.
PV: Ông Nguyễn Văn Đăng, CT Hội CTĐ xã Thanh Vân, huyện Hiệp Hòa
(Việc rà soát, lựa chọn đối tượng hưởng thụ dự án này để họ có khả năng để hấp thụ dự án ngân hàng bò cần phải xem xét lại…)
PV: Ông Dương Văn Huấn, Chủ tịch Hội CTĐ huyện Lục Nam
(Nguồn lực chăn nuôi của các hộ cũng cần phải nghiên cứu vì khi trao cho các hộ nghèo không có nguồn lực, họ sẽ không nuôi được, dẫn đến họ sẽ bán hoặc là trả lại bò…)
Tại huyện Hiệp Hòa trong 2 năm qua, có 8 con bê con được ra đời, nhưng huyện vận động mãi cũng chỉ trao được cho 3 hộ, 5 con còn lại không có người nhận nuôi. Ban điều hành của huyện, ban thực thi của xã buộc phải đem bán số bò con để nhập vào Quĩ Ngân hàng bò, tới đây huyện sẽ chuyển trả số quĩ thu được cho Hội CTĐ tỉnh.
PV: Ông Nguyễn Văn Trung, Chủ tịch Hội CTĐ huyện Hiệp Hòa
(Hiện nay Ngân hàng bò của Hiệp Hòa có gần 100 triệu tiền quĩ, chúng tôi tính mua bò để trao nhưng không có người nhận, nên sắp tới số quĩ trên sẽ được chuyển về tỉnh hội để có hình thức hỗ trợ phù hợp hơn…)
Việc Hiệp Hòa trả lại quĩ và đề xuất tạm dừng lại dự án ngân hàng bò đã cho thấy đây không chỉ là một tư duy mới, cầu thị và trách nhiệm của những người đứng đầu địa phương, mà còn gióng lên hồi chuông cảnh báo các địa phương khác về việc nên hay không nên có những thay đổi cần thiết đối với dự án đã kéo dài 10 năm này:
PV: Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và PTNT
(Đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, biến cái sản xuất nhỏ của bà con nông dân sang sản xuất lớn thông qua các mô hình HTX, vừa giúp người dân tham gia vào chuỗi sản xuất, nâng cao giá trị sản xuất, nhưng cũng là nâng cao trình độ quản lý cho người dân. Có như vậy, mới giúp bà con thoát nghèo bền vững…)
Không thể phủ nhận mục đích tốt đẹp, nhân văn và hiệu quả mà dự án Ngân hàng bò mang lại những năm đầu triển khai. Nhưng 10 năm là một chặng đường quá dài. Để phát triển, không thể dùng mãi cách làm cũ, hướng đi cũ. Đã đến lúc cần phải nghiêm túc, thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá lại tính khả thi của toàn bộ dự án Ngân hàng bò để có hướng đi mới, phù hợp và hiệu quả hơn.
Con bò có thể là cần câu của người nghèo 10 năm trước, nhưng 10 năm sau, nếu vẫn cách nghĩ, cách làm ấy, rất có thể nó lại lấy đi của chính họ cơ hội thoát nghèo.
Thay đổi để người nghèo có sinh kế mới, để cuộc sống của họ trở nên tốt hơn, sẽ không bao giờ là quá muộn, bởi chỉ khi niềm tin được lấp đầy và hy vọng được thắp sáng lên, thì người nghèo mới không cảm thấy bị bỏ lại phía sau, và không đơn độc trong cuộc chiến thoát nghèo.
CÁC TÁC PHẨM
ĐOẠT GIẢI B
TỪ SẢN XUẤT ĐẾN SỬ DỤNG THỰC PHẨM AN TOÀN
VẪN KHÓ "SÂU RỄ, BỀN GỐC”
Giải B, năm 2016
Nhóm tác giả: Thu Hương, Minh Ngọc, Trịnh Lan
Thể loại: Điều tra
KỲ I: QUANH QUẨN TÌM ĐẦU RA
H |
iện nay, cứ nhắc đến ăn gì, uống gì trong bữa ăn hằng ngày, người tiêu dùng đều lo ngại sản phẩm mất an toàn. Thế nhưng trên thực tế, thực phẩm thật sự an toàn lại khó tiêu thụ. Sản xuất, kinh doanh và sử dụng thực phẩm an toàn vẫn trong vòng luẩn quẩn, chưa "gặp nhau”.
Mạnh ai nấy lo
Theo dõi các bản tin về thực phẩm "bẩn” trên phương tiện thông tin đại chúng, chị Nguyễn Thị Hường, phường Thọ Xương (TP Bắc Giang) không khỏi ái ngại khi mua rau ngoài chợ. Vì thế, chị nhờ người thân ở quê trồng rau, mỗi tuần về lấy một lần rồi bảo quản trong tủ lạnh dùng dần. Chị Hường cho biết: "Thấy người ta hôm trước phun thuốc cho rau, hôm sau đã mang bán, tôi hãi lắm. Dù rau của người thân trồng không đa dạng, chỉ có hai đến ba loại nhưng vẫn cảm thấy ngon miệng, yên tâm vì không dùng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV)”.Không có được nguồn cung ở quê, nhiều người nội trợ tại TP Bắc Giang lựa chọn cửa hàng thân quen nhờ mua hộ rau an toàn. Tuy nhiên, có người cho rằng, chỉ dựa vào niềm tin lẫn nhau, không giám sát được quy trình nên "tặc lưỡi” coi như sạch, đỡ lăn tăn vì chẳng còn cách nào khác. Một số người đặt niềm tin vào thực phẩm mua ở siêu thị. Tuy nhiên, theo chị Trần Kim Hà ở đường Lê Lợi (TP Bắc Giang) thì dù mua ở siêu thị cũng không dám tin chắc về chất lượng và độ an toàn vì có lần khi nấu xong phải bỏ thịt bởi có mùi lạ.
Với thịt, cá thì đa phần người tiêu dùng không thể tự túc mà phải mua trên thị trường. Chị Hoàng Thị Xuân, thị trấn Thắng (Hiệp Hòa) chia sẻ, ngày nào cũng nghĩ mua gì sử dụng cho an toàn song cũng chỉ biết chọn thịt, cá ở chợ không ôi thiu chứ có chứa hóa chất, kháng sinh hay không thì chịu. Thỉnh thoảng có nhà trong phố thịt con lợn nuôi từ cơm thừa, canh cặn, mọi người tranh nhau mua vì nghĩ được sử dụng sản phẩm an toàn. Không ai kiểm chứng về hàm lượng các chất trong thịt lợn loại này song nhiều người tiêu dùng cho rằng lợn chăn nuôi không dùng cám công nghiệp hoặc ngừng cho ăn cám một thời gian trước khi giết mổ thì thịt thơm ngon, không bị hôi hoặc có mùi khác lạ khi chế biến.
Không chỉ người dân, nhiều nhà trường, doanh nghiệp (DN) cũng có nhu cầu cao về thực phẩm sạch phục vụ bếp ăn tập thể cho học sinh, công nhân. Công ty cổ phần May xuất khẩu Hà Bắc (Việt Yên) có hơn 3 nghìn lao động, hằng ngày bếp ăn phục vụ hơn 3 nghìn suất ăn tại chỗ.
Ông Trần Anh Mạnh, Tổng Giám đốc Công ty cho biết: "Yếu tố an toàn, đủ dinh dưỡng trong bữa ăn ca luôn được Công ty đặt lên hàng đầu. Gần một năm nay, đơn vị có nguồn cung rau an toàn từ một nhóm hộ tại xã Đoan Bái (Hiệp Hòa) nhưng chủng loại chưa phong phú. Các thực phẩm còn lại chủ yếu do nhà bếp lựa chọn ở chợ, lò mổ nên chúng tôi rất mong hợp tác với cơ sở sản xuất đủ tiêu chuẩn, bảo đảm có nguồn cung đa dạng về thực phẩm sạch cho Công ty”.
Bố trí bếp ăn tập thể tại DN phục vụ khoảng 2 nghìn lao động, Công ty TNHH DaeYang (Tân Yên) có nhu cầu thực phẩm tươi sống tương đối lớn. Thế nhưng dù đứng chân tại huyện trọng điểm về nông nghiệp, có nguồn rau, quả, thực phẩm dồi dào nhưng Công ty không dám nhập vì lo ngại chất lượng. Toàn bộ thực phẩm, nhà bếp lấy từ một đơn vị trung gian ở Hà Nội có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Anh Nguyễn Văn Long, phụ trách bếp ăn DN này cho biết: "Nếu các cơ sở sản xuất tại huyện cam kết bảo đảm các điều kiện thực phẩm an toàn thì chúng tôi có thể chuyển sang lấy nguồn hàng ở đây, đỡ chi phí vận chuyển”.
Nhu cầu cao nhưng khó tiêu thụ
Thông thường khi nhu cầu cao thì sản phẩm sẽ dễ bán, vậy nhưng thực phẩm an toàn vẫn khó tiêu thụ. Là thành viên đi đầu và vận động các hộ trên địa bàn thành lập HTX sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Đa Mai, phường Đa Mai (TP Bắc Giang), chị Lương Thị Diện, thôn Đọ không khỏi trăn trở. Trồng rau an toàn, người dân tuân thủ quy trình và thời gian cách ly trước khi thu hoạch sản phẩm bằng việc ghi rõ nhật ký chăm sóc; đầu tư nhà lưới, khoan giếng lấy nước tưới. Các thành viên Ban quản trị HTX thường xuyên có mặt trên đồng ruộng, khi phát hiện sâu bệnh sẽ hướng dẫn xã viên cách phòng trừ, trong đó ưu tiên phương pháp thủ công và bẫy bả sinh học. Kỳ công, chi phí cao hơn so với cách trồng rau thông thường nhưng khi bán, giá lại tương đương khiến nhiều người nản. "Chúng tôi cũng muốn đưa sản phẩm vào bếp ăn của các DN, nhà trường nhưng rất khó tiếp cận” - chị Diện chia sẻ.
Bà Ngô Thị Phan, người trồng rau ở thôn Đọ, phường Đa Mai cho biết: "Trước đây, rau an toàn của HTX cung cấp cho Siêu thị Big C Bắc Giang. Thế nhưng, hiện nay siêu thị cũng đang tạm ngừng nhập rau của chúng tôi". Được biết, mỗi ngày, HTX sản xuất khoảng 7-8 tạ rau xanh nhưng chỉ 1/3 được đưa vào các bếp ăn tập thể, còn lại bán tại thị trường tự do. Hiện, HTX đang làm các thủ tục để cung cấp vào siêu thị Co.op Mart tại TP Bắc Giang vào đầu tháng 9.
Khảo sát cho thấy, mỗi năm, toàn tỉnh sản xuất hàng trăm nghìn tấn rau, củ, thịt, cá nhưng lượng vào bếp ăn công nghiệp nhỏ giọt. Toàn tỉnh chỉ có vài mô hình liên kết như: Sản xuất rau an toàn tại xã Đoan Bái (Hiệp Hòa) cung cấp cho Công ty cổ phần May Hà Phong; HTX An toàn thực phẩm thị trấn Thanh Sơn (Sơn Động) trồng rau cho Công ty TNHH một thành viên 45 và Nhà máy Nhiệt điện Sơn Động...
Tương tự, HTX chăn nuôi Trường Thành, xã Danh Thắng (Hiệp Hòa) là cơ sở đủ tiêu chuẩn cung cấp thịt lợn an toàn theo chuỗi cũng gặp không ít khó khăn. Ông Tô Hiến Thành, Giám đốc HTX cho biết: "Từ chăn nuôi đến giết mổ, HTX đều tuân theo quy trình nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP). Để thịt tươi ngon, chúng tôi dùng biện pháp hút chân không rồi đóng gói 0,5 - 1 kg bán cho khách. Giá bán cao hơn 20-30% so với lợn mua trong dân rồi giết mổ thông thường”.
Được biết, đầu tư trang thiết bị, mở 6 điểm bán hàng tại thị trấn Thắng nhưng hiện mỗi ngày đơn vị chỉ bán được khoảng 1 tạ trong khi nhu cầu của người dân thị trấn lên tới hàng tấn thịt mỗi ngày. Sau hơn 2 tháng khai trương 6 điểm bán thịt lợn sạch tại TP Bắc Giang, đến nay các cửa hàng của HTX đã phải đóng cửa vì không tiêu thụ được. Ở huyện Tân Yên, HTX sản xuất và tiêu thụ lợn sạch mới dừng lại ở việc xác lập nhãn hiệu, còn sản phẩm vẫn bán tự do trên thị trường vì chưa có sự khác biệt để tạo niềm tin cho người tiêu dùng.
Khó bán, lợi nhuận không hơn so với sản phẩm thông thường khiến nhiều cửa hàng từng mở ra với nhiều hy vọng thì nay dừng hoạt động. Đơn cử chợ thực phẩm sạch Hà Vị (TP Bắc Giang) đi vào hoạt động từ năm 2014 với gần 40 gian hàng thực phẩm sạch, đạt tiêu chuẩn quy định. Tuy nhiên, cuối năm 2015, khu chợ này đã đóng cửa
KỲ II: TÌM TIẾNG NÓI CHUNG
Nhiều giải pháp đã được thực hiện nhằm gỡ rối cho nông sản sạch song chưa thực sự mang lại hiệu quả. Không ít mô hình, dự án về thực phẩm sạch kết thúc mà không thể nhân rộng. Giải pháp nào để mở lối cho nông sản sạch đang là vấn đề cấp thiết được đặt ra.
Hiểu đúng về thực phẩm an toàn
Các cửa hàng bán rau sạch, thịt sạch lần lượt "mất dấu”, vậy là người tiêu dùng buộc phải quay lại với cách lựa chọn truyền thống khi mua rau quả, thịt cá ở chợ. Đó là nhìn, sờ, ngửi theo cảm tính và luôn đau đáu làm thế nào để có thực phẩm sạch. Ở TP Bắc Giang, nhiều hộ dân tận dụng đất trồng rau ven đường, nơi phương tiện giao thông cơ giới qua lại đông đúc và không sử dụng bất cứ loại thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nào phun cho cây trồng. Một số khác lại đặt người thân ở quê nuôi lợn, gà không dùng cám công nghiệp rồi định kỳ xẻ thịt trữ trong tủ đá ăn dần. Tuy nhiên, theo bà Đỗ Thị Luyến, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV (Sở Nông nghiệp và PTNT), muốn rau an toàn phải trồng xa đường giao thông và đất trồng không nhiễm kim loại nặng, tưới nước sạch, bảo đảm thời gian cách ly khi dùng thuốc BVTV. Như vậy, trồng rau ven đường phố, vỉa hè mới chỉ "kiêng” được thuốc BVTV còn vẫn nhiễm khói bụi, chì và đất có thể nhiễm kim loại nặng. Ngoài ra, không phải rau phun thuốc BVTV là độc hại bởi sản xuất hàng hóa trên diện tích lớn buộc phải sử dụng thuốc BVTV để bảo đảm năng suất. Nếu tuân thủ nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng thời điểm, đúng thời gian cách ly sau khi phun thuốc) thì sản phẩm đó bảo đảm an toàn cho người sử dụng.
Nhiều người lại cho rằng, chỉ có thuốc BVTV mới gây hại cho sức khỏe con người, còn đạm được dùng thoải mái. Thế nhưng theo quy trình, sau bón đạm 7-10 ngày, rau thu hoạch mới sạch. Bà Luyến chia sẻ: "Nhiều bà con băn khoăn tại sao ăn rau không phun thuốc BVTV mà vẫn bị tiêu chảy? Khi được giải thích, nhiều người vỡ lẽ do đã ăn rau mới bón đạm được vài ngày”. Vì thế, nếu không hiểu biết đầy đủ và tuân thủ đúng khuyến cáo trong sản xuất và sử dụng nông sản thực phẩm thì nguy cơ mất an toàn rất cao.
Đối với thịt lợn và gà, có người coi không dùng cám công nghiệp là thịt sạch là sai lầm bởi nếu sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp bảo đảm chất lượng sẽ đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi, nâng cao chất lượng thịt; vật nuôi không bị nhiễm các ký sinh trùng hoặc các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Cũng có người ngộ nhận phương pháp nuôi thả gia súc, gia cầm tự nhiên sẽ tạo ra sản phẩm an toàn tuyệt đối song cán bộ chuyên môn khuyến cáo, vật nuôi phải được định kỳ tẩy giun sán nếu không sẽ nhiễm ký sinh trùng gây hại cho người khi sử dụng. Từ thực trạng trên cho thấy, quan niệm của một bộ phận người tiêu dùng về sản xuất cũng như sử dụng thực phẩm an toàn chưa toàn diện và đầy đủ.
Nông dân, cộng đồng chung tay
Nguyên nhân khiến sản phẩm sạch khó tiêu thụ là do một bộ phận người dân còn dễ dãi trong tiêu dùng. Mặt khác, những căn cứ xác định hàng hóa được gọi là thực phẩm sạch chưa đủ mạnh để thuyết phục người tiêu dùng. Ví như rau an toàn của HTX Đa Mai khi đưa ra thị trường có đai buộc rau ghi tên sản phẩm của đơn vị nhưng người mua chưa thật sự tin tưởng, một số khác lại có ý nghĩ đai buộc rau rất dễ bị làm giả nên đã không mặn mà với sản phẩm đó. Hay na dai VietGAP, dứa VietGAP tại Lục Nam cũng không có cách nào phân biệt với sản phẩm thông thường bởi không có bao bì đóng gói riêng. Sản phẩm an toàn thường có giá thành cao hơn nhưng lại không được bán đúng giá trị khiến người sản xuất nản lòng và không ít trường hợp thiếu kiên trì đã bỏ qua quy trình.
An toàn vệ sinh thực phẩm đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Những tác hại từ thực phẩm mất an toàn gây ra rất lớn như gia tăng bệnh ung thư và xuất hiện bệnh mới mà y học vẫn chưa tìm ra cách điều trị. Dù khó nhưng các cấp chính quyền, cơ quan chuyên môn trong tỉnh đang nỗ lực thực hiện các biện pháp để thực phẩm sạch từng bước chiếm lĩnh thị trường, góp phần bảo vệ sức khỏe người dân. UBND tỉnh đã chọn năm 2016 là Năm cao điểm vệ sinh an toàn thực phẩm ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp. Thực hiện chủ trương này, các ngành chuyên môn đã tích cực kiểm tra, phát hiện một số mẫu rau, thịt, thức ăn chăn nuôi không bảo đảm chất lượng; xử lý cơ sở vi phạm quy định. Thế nhưng sau hơn 4 tháng triển khai, kết quả đạt được chưa như mong đợi.
Trước thực tế trên, nhiều ý kiến cho rằng kiểm soát ATTP không chỉ tập trung theo đợt cao điểm mà cần duy trì thường xuyên để ngăn chặn thực phẩm bẩn, bởi lẽ biện pháp hiệu quả nhất là làm tốt vai trò quản lý của cơ quan chức năng. Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan cần đầu tư đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ, bổ sung trang thiết bị để nâng cao năng lực hoạt động cho công tác này, đặc biệt là tăng khả năng kiểm tra, đánh giá nhanh tình trạng vệ sinh ATTP. Công bố những cá nhân, tổ chức làm tốt và công khai xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để mọi người biết cổ vũ, động viên nhân rộng hay tẩy chay. Hiện nay, Luật Hình sự đã có quy định tội danh đối với hành vi vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm. Căn cứ vào đó, cơ quan chức năng nên làm điểm, xét xử lưu động vụ án liên quan đến lĩnh vực này để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung trong cộng đồng.
Theo ông Vũ Đình Phượng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT, cần tổ chức các chương trình kết nối cung - cầu thực phẩm an toàn giữa tổ chức, cá nhân cung ứng với doanh nghiệp (DN), người dân. Qua đó, các DN sẽ tiếp cận với người dân để tính toán phương án sản xuất, thu mua phù hợp. Cùng đó, tăng cường tuyên truyền để người tiêu dùng có ý thức và hành vi tích cực, biết cách bảo vệ mình và gia đình trong tiêu dùng hằng ngày dựa trên sự hiểu biết, các quy định của pháp luật và cơ quan truyền thông. Khi xã hội hình thành lớp người tiêu dùng khó tính cùng với cơ chế kiểm soát thực phẩm nghiêm ngặt từ phía cơ quan chức năng sẽ buộc bên sản xuất, kinh doanh phải tìm hiểu, tuân thủ quy trình kỹ thuật và luật pháp nếu không muốn tự triệt tiêu. Muốn như vậy, Nhà nước cần thiết lập cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin, giải quyết các kiến nghị liên quan đến quyền lợi của người tiêu dùng khi mua, sử dụng thực phẩm không an toàn hiệu quả hơn nữa.
Ngoài các giải pháp nêu trên, để có đầu ra ổn định cho nông sản sạch của tỉnh, trước hết cần tiếp tục quy hoạch vùng đủ điều kiện sản xuất an toàn; hỗ trợ xây dựng mô hình theo chuỗi. Người dân phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình bảo đảm vệ sinh ATTP, thực hiện đúng cam kết với DN, thương nhân. Người sản xuất cũng nên năng động chào hàng, mở rộng thị trường. Đối với những sản phẩm được bảo hộ nhãn hiệu, khi đưa ra thị trường phải gắn nhãn mác để khẳng định nguồn gốc, chất lượng, bảo đảm uy tín.
CHUYÊN ĐỀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHÌN TỪ CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
Giải B, năm 2016
Nhóm tác giả: Kim Hiếu, Thu Hằng, Minh Thu,
Nguyễn Hưởng, Đỗ Quyên, Tuyết Mai
Thể loại: Phản ánh
XÃ MẠNH NHỜ CÁN BỘ VỮNG
T |
hực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức vững về chuyên môn, sáng tạo, trách nhiệm, linh hoạt trong giải quyết công việc sẽ giúp chính quyền cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị. Cảnh Thụy (Yên Dũng) và Giáp Sơn (Lục Ngạn) là hai xã như thế.
Cán bộ nêu gương
Xác định cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ ở cơ sở, hằng năm, cấp ủy, chính quyền xã Cảnh Thụy luôn quan tâm cử đội ngũ công chức tham gia các lớp học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Hiện tại, 23 cán bộ, công chức xã đạt chuyên môn từ trung cấp trở lên, trong đó 17 người có bằng đại học, thạc sĩ. Đội ngũ cán bộ, công chức được bố trí, sắp xếp hợp lý, đáp ứng yêu cầu công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Điển hình như tháng 11-2011, khi bắt đầu thực hiện dồn điền đổi thửa, cấp ủy, chính quyền xã tích cực tuyên truyền, quán triệt tới cấp ủy, ban quản lý tất cả 9 thôn, trưởng các ban, ngành, đoàn thể xã; tổ chức đi tham quan, học tập kinh nghiệm ở xã Tân Thanh (tỉnh Thái Bình)- xã điểm của T.Ư. Đồng thời, yêu cầu cán bộ xã, thôn, đảng viên nêu gương, vận động gia đình, người thân chấp hành trước; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ. Thôn Tân Mỹ được lựa chọn làm điểm. Ông Ngụy Đình Nam, Bí thư Chi bộ thôn chia sẻ: "Bắt tay vào công việc, tôi và anh Nguyễn Khả Phương (Trưởng thôn thời điểm đó) đã nghiên cứu, phối hợp với Ban quản lý dồn điền đổi thửa thôn xây dựng phương án cụ thể và tổ chức hơn 30 cuộc họp chi bộ, đoàn thể, họp dân để thống nhất ý kiến”. Là người trực tiếp ở cơ sở, qua mỗi buổi họp dân, nhờ nắm vững vị trí, địa hình, diện tích đồng ruộng của từng hộ nên trưởng, phó thôn khéo léo tuyên truyền tới từng hộ, từng người. Khi thực hiện mỗi phần việc cụ thể như dồn, chia đất, đào mương, làm trục nội đồng… lãnh đạo xã cử cán bộ chuyên môn phụ trách địa bàn bám sát quá trình triển khai để nắm bắt những vướng mắc phát sinh, kịp thời tháo gỡ; thường xuyên lắng nghe ý kiến, giải đáp thắc mắc của nhân dân. Ngoài ra, với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, qua họp dân, sinh hoạt chi bộ, đoàn thể hay trên hệ thống loa truyền thanh của thôn (thời lượng 30 phút/ ngày), cán bộ cơ sở vận động bà con ủng hộ chủ trương, đóng góp tiền mặt để hoàn thành các phần việc.
Trao đổi với ông Trần Đức Thức, Phó Chủ tịch UBND xã được biết: Với sự vào cuộc, nhất là nêu gương của đội ngũ cán bộ xã, thôn, đến tháng 3-2013, 9/9 thôn đã hoàn thành dồn điền đổi thửa, tổng diện tích hơn 350 ha. Từ đó, tạo thuận lợi cho người dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Cùng bà con tìm hướng thoát nghèo
Quanh năm gắn bó với vùng đất đồi, cuộc sống gia đình anh Hoàng Văn Thu (SN 1984), dân tộc Nùng, thôn Dọc Mùng, xã Giáp Sơn (Lục Ngạn) chỉ trông vào trồng vải, sắn và chăn nuôi nhỏ lẻ. Với gần 100 gốc vải nhưng do không có kiến thức chăm sóc nên năng suất thấp, vợ chồng anh cố gắng nhiều mà chưa thoát nghèo. May mắn cuối năm 2014, gia đình anh được chính quyền xã quan tâm cử cán bộ thôn, phân công đoàn thể trực tiếp hỗ trợ, giúp đỡ. Anh bày tỏ: "Gia đình tôi thường xuyên được lãnh đạo địa phương thăm hỏi, động viên tinh thần, có cán bộ khuyến nông hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, cải tạo vườn vải nên năng suất tăng lên rõ rệt”. Ngoài ra, cũng từ "cầu nối” của cán bộ thôn, đầu năm 2015, anh được nhận món quà "sinh kế” là một con bò sinh sản từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015. Đến nay, gia đình anh đã vươn lên thoát nghèo. Anh Vi Văn Sơn, Trưởng thôn Dọc Mùng cho biết: Do 100% là người dân tộc Nùng, tập quán canh tác lạc hậu, thiếu vốn sản xuất nên tỷ lệ hộ nghèo ở thôn chiếm hơn 50%. Khắc phục tình trạng này, khi có chủ trương phân công cán bộ cơ sở trực tiếp giúp đỡ bà con, chúng tôi tranh thủ tới từng hộ nắm tình hình đời sống, khó khăn họ gặp phải; phối hợp với cơ quan chuyên môn địa phương truyền đạt kỹ thuật canh tác, nhân rộng các mô hình trồng trọt, chăn nuôi mới; tham mưu với cấp ủy, chính quyền ưu tiên hỗ trợ vốn, giống phù hợp, giúp bà con vươn lên.
Được biết, để đáp ứng yêu cầu công việc, đội ngũ cán bộ xã Giáp Sơn được trẻ hóa, 22 cán bộ, công chức xã đều có bằng trung cấp, đại học, trên đại học. Nhờ tâm huyết, trách nhiệm với công việc, đội ngũ này đã triển khai hiệu quả các nhiệm vụ phát triển KT - XH địa phương. Đặc biệt, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, xã cử cán bộ, đoàn thể bám địa bàn, trực tiếp giúp đỡ từng hộ nghèo. Ông Vi Văn Tư, Chủ tịch UBND xã cho rằng: Bên cạnh hỗ trợ của Nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức xã phải là điểm tựa động viên, hỗ trợ các gia đình mạnh dạn thay đổi tập quán canh tác, phát triển các mô hình kinh tế để vươn lên. Điển hình như mô hình trồng chanh đào ở thôn Chão Mới; trồng bưởi Quế Dương ở thôn Trại Bèo hay trồng bưởi đào ở hầu hết các thôn. Ngoài ra, xã duy trì, phát triển các cây ăn quả chủ lực như vải thiều, cam đường canh, táo Đài Loan… Qua việc phân công giúp đỡ gia đình khó khăn, đội ngũ cán bộ, công chức có cơ hội rèn luyện, nâng cao năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm với công việc được giao. Năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo toàn xã giảm còn 16,9% (trung bình mỗi năm giảm 3%); đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÓ PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
Ông Trịnh Tuấn Vinh, Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn Ngọc Lợi, xã Ngọc Châu (Tân Yên)
Lắng nghe ý kiến nhân dân
Trong cuộc sống đôi lúc người dân có những vướng mắc xoay quanh lợi ích của gia đình, nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai, chế độ chính sách… cần được tháo gỡ, giải quyết kịp thời, tránh nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, tôi mong muốn lãnh đạo cấp xã thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ trao đổi, lắng nghe, nắm bắt kịp thời những ý kiến phản ánh của cán bộ, nhân dân. Trong quá trình thực hiện, chỗ nào dân chưa hiểu, cử cán bộ chuyên môn giải thích cặn kẽ, thấu tình, đạt lý. UBND xã làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân, không để dồn nén sự việc, bùng phát thành điểm nóng.
Chị Trương Thị Tính, giáo viên Trường Tiểu học Tân Sơn (Lục Ngạn)
Nâng cao trình độ, năng lực công tác
Ở một số xã vẫn còn cán bộ hạn chế về trình độ, trong khi nhiều công việc liên quan trực tiếp đến người dân, nhất là thủ tục hành chính. Nhiều trường hợp lẽ ra giải quyết một lần là xong nhưng thực tế người dân phải đi lại nhiều lần. Vì thế, các địa phương nên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, nhất là các chức danh thường xuyên tiếp xúc với dân như cán bộ tư pháp, địa chính, văn phòng... Niềm tin của người dân đối với chính quyền thể hiện qua chất lượng giải quyết những công việc cụ thể hằng ngày. Nếu công việc nhanh gọn, thuận lợi thì hình ảnh, niềm tin của người dân với cán bộ sẽ nâng lên.
Anh Đỗ Văn Dũng, công nhân Công ty cổ phần Cầu Sen (Lục Nam)
Thân thiện khi tiếp dân
Ngoài là nơi làm việc, trụ sở UBND xã, phường, thị trấn còn là địa điểm tiếp đón, phục vụ nhân dân, giải quyết các thủ tục hành chính. Giao tiếp, ứng xử trách nhiệm, thân thiện với nhân dân là yêu cầu quan trọng trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức cơ sở. Để làm được điều này, mỗi cán bộ, công chức tự trau dồi đạo đức nghề nghiệp, tác phong xử lý công việc, tuyệt đối không gây phiền hà, sách nhiễu, không thờ ơ trước những bức xúc của nhân dân. Hàng năm, mỗi địa phương có thể phát phiếu thăm dò, đánh giá sự hài lòng của người dân, từ đó kịp thời có biện pháp chấn chỉnh những hạn chế, tạo nền nếp, kỷ cương trong giải quyết công việc.
Nguyễn Thị Chức, người dân thôn Phù Tài, xã Tiên Sơn (Việt Yên)
Bảo đảm an ninh nông thôn
Lâu nay, ở nhiều vùng quê vẫn xảy ra tình trạng trộm cắp vặt. Tôi mong muốn, lực lượng công an xã tiếp tục bám sát địa bàn, chủ động nắm chắc tình hình an ninh thôn, xóm, phát hiện kịp thời những vụ việc liên quan đến an ninh trật tự. Cùng đó, tuyên truyền cán bộ, nhân dân tích cực tham gia phát hiện, tố giác tội phạm. Thường xuyên thông báo phương thức, thủ đoạn của tội phạm tới nhân dân để mọi người nâng cao cảnh giác, có ý thức tự bảo vệ tài sản cá nhân và tập thể, hạn chế sơ hở để các đối tượng lạm dụng gây án.
Ông Nguyễn Văn Lành, hội viên Chi hội nông dân thôn Quyên, xã Huyền Sơn (Lục Nam)
Giúp người dân nâng cao thu nhập
Là địa phương thuần nông, đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, ruộng đất vẫn manh mún, nhỏ lẻ, việc liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ còn hạn chế. Vì vậy, tôi mong muốn, cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm hơn nữa đến sản xuất, tập trung chỉ đạo các thôn đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học- kỹ thuật, công nghệ mới vào trồng trọt, chăn nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế. Chú trọng đến các sản phẩm đặc thù địa phương gắn với thị trường tiêu thụ, có như thế mới giúp nông dân nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống.
CHUYỆN NGHỀ CỦA CÁN BỘ XÃ
Vất vả, chiếm nhiều thời gian, thường xuyên va chạm là đặc thù công việc của những cán bộ, công chức xã. Không nản, họ vẫn nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ông Bàn Văn Minh, Chủ tịch UBND xã Tuấn Mậu (Sơn Động):
Xây dựng mối quan hệ với dân bằng tình cảm, uy tín
Xã Tuấn Mậu có 70% dân tộc thiểu số, một bộ phận nhân dân trình độ nhận thức hạn chế. Mấy năm trước, tình hình xã khá phức tạp do các dân tộc khác trong vùng, thậm chí ngay cả một số cán bộ xã cũng kỳ thị, xa lánh đồng bào Dao vì nghĩ dân tộc này có thuốc độc. Không ai dám đến gần các hộ người Dao, có người vào nhà họ nhưng không ăn cơm, uống nước. Điều này gây mất đoàn kết, cản trở xây dựng khối đoàn kết trong xã. Để xóa đi những sự kỳ thị và hoang mang đó, với vai trò Chủ tịch UBND xã, đồng thời cũng là người dân tộc Dao, tôi đã rất vất vả, hằng ngày phải tuyên truyền, giải thích và tìm cách hóa giải, chứng minh những lời đồn đoán đó đều không đúng. Mưa dầm thấm lâu, dần dần mọi người hiểu rằng người Dao không hề có thứ thuốc độc chết người như lời đồn thổi.
Hiện nay trên địa bàn xã đang triển khai dự án lớn tại Khu du lịch văn hóa, tâm linh Tây Yên Tử, một trong những nhiệm vụ rất nặng nề, khó khăn với cán bộ xã là công tác giải phóng mặt bằng. Điều đáng nói là nhiều người nghĩ Chủ tịch xã muốn làm gì thì làm, họ cho rằng cán bộ xã ăn chặn, bớt xén tiền của dân chứ chưa hiểu những vấn đề đó thuộc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Bằng uy tín, tình cảm và sự kiên trì, tôi đã tìm cơ hội tiếp cận người dân bằng nhiều cách như đến gia đình, hoặc thông qua những đám cỗ để gặp gỡ, trò chuyện, chia sẻ, giải thích. Nhờ vậy từ 54 hộ trong diện cần phải cưỡng chế, đến nay chỉ còn hơn 10 hộ.
Ông Ngụy Thế Nhường, cán bộ Văn phòng UBND xã Tư Mại (Yên Dũng):
Không ngại va chạm thì mới được việc
Cán bộ cơ sở thường xuyên phải tiếp xúc trực tiếp với công dân nên hay gặp những tình huống khó xử. Trước đây tôi làm cán bộ tư pháp xã, mặc dù đã tận tình hướng dẫn, giải thích công dân hoàn thiện hồ sơ hoặc các thủ tục hành chính theo đúng trình tự, quy định nhưng một số người không hiểu lại cho rằng cán bộ phiền hà, vòi vĩnh dân, trong đó có cả những người là họ hàng, thân quen. Điều đó ảnh hưởng đến tình cảm, uy tín trong gia đình, hàng xóm.
Còn nhớ năm 2004, khi mới 30 tuổi, tôi làm trưởng thôn Đông Khánh (xã Tư Mại)- trẻ nhất trong các trưởng thôn của huyện thời điểm ấy. Được cấp trên giao nhiệm vụ thực hiện dồn điền đổi thửa, công việc hết sức khó khăn vì người dân chưa hiểu nên ít đồng thuận. Có trường hợp chửi bới, xúc phạm cán bộ. Đó còn chưa kể ai cũng muốn giành những thửa đất ở vị trí đẹp dẫn đến tranh cãi, khó tìm tiếng nói chung. Qua nhiều lần họp dân triển khai dân chủ, công khai, người dân được tự gắp phiếu chọn ruộng. Kết quả, toàn huyện chưa có địa phương nào làm được như ở Đông Khánh là dồn từ 20 thửa còn 3 thửa. Giờ thì mọi người thấy lợi ích từ việc dồn điền, đổi thửa đã nói lời cảm ơn tôi. Thành công đó là bước đệm quan trọng để tôi được cấp trên tin tưởng điều động lên UBND xã làm việc và sau đó học nâng cao lên đại học.
Anh Vũ Đình Tùng (SN 1979), cán bộ khuyến nông xã Hương Sơn (Lạng Giang)
Khuyến nông không thể nói suông
Sau khi tốt nghiệp Học viện Nông nghiệp I Hà Nội, tôi trở về gắn bó với quê hương chỉ mong giúp bà con có cuộc sống ổn định từ đồng đất quê mình. Là xã miền núi, Hương Sơn có diện tích hơn 34 km2, 24 thôn với 56 % người dân tộc thiểu số. Trung bình mỗi tháng, tôi đi lại tổng cộng 150 km bằng xe máy quanh xã và dành phần lớn thời gian ở ngoài đồng ruộng để hướng dẫn bà con kỹ thuật sản xuất. Còn nhớ năm 2012, khoảng 60% diện tích lúa trong xã bị bệnh đốm sọc vi khuẩn và vàng lùn xoắn lá. Tôi phải đi khắp các thôn điều tra, hỏi han cặn kẽ biểu hiện bệnh, khoanh vùng hướng dẫn bà con sử dụng đúng thuốc đặc trị. Tuy vậy, nhiều người còn định kiến, nghĩ rằng cán bộ chỉ nặng kiến thức sách vở, giáo điều mà không có kinh nghiệm thực tiễn. Tôi quyết định thử nghiệm các giống mới, áp dụng khoa học kỹ thuật trên chính diện tích đất canh tác của gia đình mình trước, khi có kết quả tốt, tôi đi vận động, thế là bà con hăng hái làm theo.
Trước đây, người dân thường có thói quen sau thu hoạch tự để giống cho vụ tới thay vì mua mới và sử dụng thuốc diệt cỏ làm sạch đồng ruộng. Thói quen này khiến đất bạc màu, nhiễm độc, năng suất cây trồng giảm. Nắm bắt tình hình đó, tôi đến từng hộ vận động, phân tích cặn kẽ tác hại của sử dụng giống cũ và lạm dụng thuốc diệt cỏ. Đồng thời hướng dẫn người dân cách tự chế thuốc trừ sâu thảo mộc với nguyên liệu tự nhiên từ gừng, tỏi bảo đảm an toàn, tiết kiệm, lại không ảnh hưởng sức khỏe. Bây giờ bà con yên tâm, nghe và làm theo. Bởi thế, làm khuyến nông không thể nói suông, mà phải miệng nói, tay làm.
GIẢI QUYẾT KỊP THỜI, DỨT ĐIỂM TỪ CƠ SỞ SẼ GIẢM KHIẾU KIỆN PHỨC TẠP, KÉO DÀI
Cơ chế, chính sách thường xuyên thay đổi, có những bất cập ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân; công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực có nơi còn yếu kém hoặc do yếu tố tiêu cực khác làm phát sinh khiếu nại, tố cáo (KNTC). Làm gì để giải quyết KNTC ở cấp cơ sở đạt hiệu quả cao, hạn chế các vụ khiếu kiện phức tạp, kéo dài, vượt cấp? Ông Nguyễn Sơn Hồng, Trưởng Ban Tiếp công dân (Văn phòng UBND tỉnh) trả lời phỏng vấn về vấn đề này.
Qua công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và tham mưu cho UBND tỉnh giải quyết KNTC, ông nhìn nhận thế nào về nhiệm vụ này ở cấp cơ sở hiện nay?
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, phối hợp của Ủy ban MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cấp, ngành trong tỉnh đã có nhiều cố gắng trong công tác tiếp dân, giải quyết KNTC. Hơn 80% đơn thư, kiến nghị, phản ánh của công dân và vụ việc thuộc thẩm quyền của các cấp, ngành được phân loại, xử lý và giải quyết.
Mặc dù vậy, tình hình KNTC trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến phức tạp, nhất là ở cấp cơ sở còn những tồn tại, hạn chế. Đó là tình trạng chưa nhận thức đầy đủ và chưa thật quan tâm công tác này; bố trí cán bộ hạn chế về trình độ, năng lực, hiểu biết pháp luật và khả năng giao tiếp. Không chấp hành đúng quy định về trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết, để kéo dài một số vụ việc; có nơi khi giải quyết khiếu nại của công dân thay vì ra quyết định theo luật lại ban hành công văn.
Việc tuyên truyền, vận động, giải thích để công dân hiểu và thôi khiếu kiện vụ việc đã được xem xét, giải quyết đúng pháp luật có nơi chưa hiệu quả. Công tác dân vận chính quyền, tuyên truyền giải thích về chính sách bồi thường khi thu hồi đất ở một số dự án và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại một số địa phương làm chưa tốt. Những yếu tố đó dẫn đến tình trạng khiếu kiện phức tạp, kéo dài, vượt cấp.
Theo ông, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ cơ sở ảnh hưởng như thế nào đến mức độ khiếu kiện của người dân?
Nếu cấp cơ sở có được đội ngũ cán bộ có năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, trách nhiệm và đạo đức tốt sẽ bảo đảm hiệu quả quản lý, điều hành các nhiệm vụ ở thôn, xã, được người dân tin tưởng. Khi phát sinh KNTC, việc giải quyết sẽ được thực hiện đúng quy định, chất lượng tốt, giúp giảm tỷ lệ tiếp khiếu, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài.
Nếu cán bộ làm công tác tiếp công dân, giải quyết KNTC không nắm vững chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước sẽ không giải thích được cho người dân hiểu để thực hiện quyền KNTC của mình hoặc giải quyết, hướng dẫn không đúng, gây mất lòng tin, tâm lý bất bình, ức chế cho người dân, vô tình "thúc đẩy” người dân khiếu kiện vượt cấp, kéo dài. Những địa phương có số vụ việc giải quyết chậm, vụ việc bị cải sửa, hủy bỏ và phải giải quyết lại chiếm tỷ lệ cao nguyên nhân chủ yếu là do năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ tại địa phương đó còn hạn chế.
Vậy cần khắc phục những gì để chính quyền cơ sở làm tốt công tác này, thưa ông?
Cấp ủy, chính quyền cơ sở phải nhận thức đúng đắn, xác định công tác tiếp dân, giải quyết KNTC là nhiệm vụ trọng tâm cần sự tập trung cao chỉ đạo và cần bố trí đủ cán bộ có năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết, trách nhiệm với "nghề”.
Thường xuyên rà soát, nắm chắc tình hình khiếu kiện, diễn biến các vụ việc phức tạp, tồn đọng và mới phát sinh trên địa bàn để chỉ đạo giải quyết kịp thời, dứt điểm. Đưa nội dung giải quyết KNTC đối với các vụ việc phức tạp, đông người vào giao ban hằng tuần để có biện pháp chỉ đạo, giải quyết phù hợp, hiệu quả.
Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã phải về cơ sở kiểm tra thực tế, gặp gỡ, lắng nghe ý kiến công dân, tổ chức đối thoại trực tiếp với công dân để giải quyết vụ việc bảo đảm khách quan, đúng pháp luật, chú trọng công tác hòa giải trong giải quyết KNTC ngay tại cơ sở.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm; xử lý và kiến nghị xử lý nghiêm đối với những tập thể, cá nhân có sai phạm để tạo niềm tin và ủng hộ của nhân dân.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; công khai các thông tin, quy định của Nhà nước (không thuộc văn bản mật), đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, kết hợp công tác tuyên truyền, vận động với phổ biến pháp luật về KNTC đến các tầng lớp nhân dân.
Tổ chức hoặc cử cán bộ tham dự các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ để củng cố, nâng cao trình độ, kiến thức, nghiệp vụ và kỹ năng trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết KNTC. Đồng thời có chế độ đãi ngộ cũng như xem xét đề bạt, bổ nhiệm đối với cán bộ làm tốt công tác tiếp công dân, giải quyết KNTC.
Người dân cần phải làm gì khi đến cơ quan công quyền đề đạt giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình?
Người dân hãy tin tưởng vào các cơ quan Nhà nước. Cùng với đó, người dân cũng cần tìm hiểu, đến đúng cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết và trình bày một cách ngắn gọn, đúng trọng tâm, trung thực, đầy đủ, đưa ra những căn cứ, cơ sở có liên quan đến vụ việc để được tư vấn, hướng dẫn hoặc giải quyết đúng pháp luật, không nghe những phần tử xấu, cơ hội chính trị lôi kéo, xúi giục đi khiếu kiện hoặc cố tình tố cáo sai sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Xin cảm ơn ông!
CẤP ỦY ĐỐI THOẠI VỚI NHÂN DÂN – TẠO SỰ GẮN KẾT VÀ ĐỒNG THUẬN
Giải B, năm 1016
Nhóm tác giả: Quốc Trường, Vân Anh
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
X |
uất phát từ yêu cầu thực tiễn, ngày 9/7/2015, Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Quyết định số 1158 về Quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với nhân dân. Đây là một trong những giải pháp thiết thực đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền.
Đối thoại ở cả ba cấp
Người trực tiếp đối thoại với nhân dân là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Đối tượng tiếp xúc, đối thoại là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân. Như vậy, hoạt động đối thoại được thực hiện ở cả ba cấp với mục đích lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhân dân; tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kịp thời phát hiện, chỉ đạo khắc phục thiếu sót trong thực hiện nhiệm vụ của cơ sở. Thông qua đó tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong toàn xã hội.
Thực hiện yêu cầu ấy, thời gian qua các đồng chí lãnh đạo tỉnh nêu gương, sắp xếp thời gian tổ chức gặp gỡ, đối thoại với cán bộ, các tầng lớp nhân dân tại nhiều địa phương trong tỉnh. Ở mỗi cuộc gặp gỡ, các đồng chí khẳng định, việc đối thoại là trách nhiệm của người đứng đầu địa phương với nhân dân; hoạt động đối thoại là "kênh” quan trọng và trực tiếp giúp lãnh đạo các cấp nắm bắt nguyện vọng, nghe người dân "hiến kế" phát triển KT-XH; cùng tìm cách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, vấn đề bức xúc còn tồn đọng.
Trên cơ sở hướng dẫn của BTV Tỉnh ủy, BTV cấp ủy cấp huyện chủ động xây dựng kế hoạch tiếp xúc, đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân, triển khai kịp thời tới các xã, phường, thị trấn. Theo tinh thần chỉ đạo chung, việc tổ chức đối thoại đã được thực hiện đồng loạt, bằng nhiều hình thức, từ định kỳ, chuyên đề, đột xuất cho tới đối thoại theo nhóm đối tượng.
Khảo sát tại TP Bắc Giang, cấp ủy, chính quyền duy trì giao ban với bí thư chi bộ, trưởng thôn, tổ dân phố định kỳ 2 lần/năm. Ngoài ra tổ chức đối thoại với cán bộ, đảng viên và nhân dân các xã, phường theo cụm, khu vực. Ở huyện Lục Nam, BTV Huyện ủy chỉ đạo đồng loạt 27 xã, thị trấn tổ chức hội nghị đối thoại giữa Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, UBND cấp xã với nhân dân vào hai ngày cố định trung tuần tháng 7-2016. Đồng chí Hoàng Văn Bể, Bí thư Đảng ủy xã Chu Điện chia sẻ: Để người dân chủ động chuẩn bị ý kiến, sắp xếp thời gian đến dự đông đủ, xã thông báo rộng rãi trên hệ thống loa truyền thanh về kế hoạch, ngày giờ, địa điểm hội nghị đối thoại...
Tại huyện Tân Yên, bên cạnh duy trì giao ban, đối thoại hằng quý với bí thư các chi bộ thôn, khu phố, Thường trực Huyện ủy tổ chức đối thoại theo chuyên đề. Tháng 8 vừa qua, đồng chí Bí thư Huyện ủy Lâm Thị Hương Thành gặp gỡ các chủ trang trại thuộc 17 xã trong huyện. Chia sẻ về điều này, đồng chí nhấn mạnh: "Việc được trực tiếp gặp, trao đổi, thảo luận với chủ các trang trại giúp lãnh đạo Huyện ủy thấy rõ hơn những thuận lợi, khó khăn, qua đó cùng bàn giải pháp tháo gỡ, nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế trang trại…”. Đồng chí khẳng định, Huyện ủy sẽ nghiên cứu, xem xét mở rộng hình thức đối thoại này.
Lắng nghe, giải quyếtviệc dân cần
Đối thoại vừa nêu cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu, vừa trở thành diễn đàn để mọi tầng lớp nhân dân trực tiếp bày tỏ tâm tư, nguyện vọng. Việc trao đổi thông tin hai chiều giúp mối quan hệ giữa cán bộ với nhân dân gần gũi, cởi mở hơn, từ đó tạo đồng thuận giải quyết vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội. Theo thống kê của Thành ủy Bắc Giang, từ năm 2015 đến nay, 80% kiến nghị trong cuộc giao ban giữa Thành ủy với bí thư chi bộ thôn, tổ dân phố được giải quyết. Trong năm 2016, các xã, thị trấn huyện Lục Nam tổ chức 30 cuộc đối thoại phát sinh, đa phần tại những địa bàn có tiềm ẩn phức tạp. Nhờ đó, nhiều vấn đề kịp thời được khắc phục như: Xử lý ô nhiễm môi trường ở thôn Thanh Giã 2 do rác thải trên kênh Yên Lại từ đầu nguồn dồn về; khai thác cát trái phép trên sông ở Đan Hội, Vũ Xá; chế độ chính sách người có công đối với thân nhân liệt sĩ…
Tăng cường đối thoại cũng giúp các địa phương hoàn thành nhiều nhiệm vụ trọng tâm, nhất là việc liên quan đến lợi ích trực tiếp của người dân. Đồng chí Đặng Đình Hoan, Phó Chủ tịch UBND huyện Lạng Giang cho biết: "Dự án đường cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn đoạn đi qua địa bàn huyện có tổng chiều dài 19 km, diện tích đất bị thu hồi hơn 130 ha, liên quan đến gần 2 nghìn hộ. Xác định việc giải phóng mặt bằng phục vụ dự án là nhiệm vụ khó, cấp ủy, chính quyền huyện và 4 xã liên quan gồm: Tân Dĩnh, Xương Lâm, Tân Hưng và Hương Sơn đã tổ chức hàng trăm cuộc gặp gỡ, lắng nghe nguyện vọng nhân dân. Những băn khoăn vì vậy được giải tỏa, người dân tin tưởng, đồng tình với chủ trương lớn, tạo thuận lợi để dự án thực hiện bảo đảm tiến độ”.
Hay như huyện Tân Yên, từ đối thoại với chủ trang trại, Huyện ủy chỉ đạo cơ quan chức năng, các xã, thị trấn giải quyết vấn đề về môi trường; tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để mô hình trang trại phát triển cả về số lượng và chất lượng, qua đó góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết chuyên đề Phát triển cây ăn quả và nâng cao hiệu quả kinh tế vườn đồi của BCH Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015 - 2020.
KỲ II: ĐỂ ĐỐI THOẠI THỰC SỰ TRỞ THÀNH CẦU NỐI
Sau hơn một năm thực hiện Quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với nhân dân cho thấy kết quả đạt được rất rõ nét. Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn cần tháo gỡ để việc đối thoại mang lại hiệu quả hơn, thực sự trở thành cầu nối giữa Đảng với dân.
Vướng mắc từ thực tiễn
Một trong những điểm tồn tại dễ nhận thấy là phần lớn hội nghị đối thoại mang tính định kỳ, ít có các buổi gặp gỡ giải quyết những vấn đề phát sinh đột xuất; chất lượng đối thoại, nhất là ở cấp cơ sở chưa cao.Ông Vi Văn Hành, cán bộ hưu ở thôn Na Lang, xã Phong Minh, huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) bày tỏ: Mục đích của hoạt động đối thoại là để nắm bắt thông tin, hiểu rõ bản chất và giải quyết tận gốc vấn đề đó. Nhưng trong một số cuộc đối thoại tôi được tham dự cho thấy vẫn còn trả lời nặng về giải thích văn bản mà chưa thực sự làm rõ trách nhiệm của ngành chức năng và người đứng đầu. Một số việc do thiếu biện pháp xử lý dứt điểm nên người dân vẫn nhắc đi, nhắc lại tại nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc. Đơn cử như công trình nước sạch ở thôn Na Lang bị hỏng, người dân không có nước sạch sử dụng và kiến nghị vài năm nay nhưng chưa được giải quyết.
Vướng mắc khác là thành phần dự đối thoại có nơi còn bó hẹp, giới hạn số lượng và đối tượng. Ý kiến phản ánh vì vậy chưa thật khách quan, đúng vấn đề bức xúc ở cơ sở cần quan tâm, tháo gỡ. Ngoài ra, công tác thông tin, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa, nội dung đối thoại thiếu chiều sâu.Nhiều người dân khi được hỏi chưa biết hình thức, thành phần đối thoại ra sao, tổ chức như thế nào. Trong khi đó, hội nghị đối thoại chỉ diễn ra trong 1/2 ngày với nhiều nội dung nhưng ở không ít địa phương, nhất là cấp xã, việc báo cáo đánh giá kết quả tình hình phát triển KT-XH địa phương; báo cáo tổng hợp ý kiến chiếm thời lượng quá lớn...dẫn đến kiến nghị trực tiếp của nhân dân tại hội nghị không nhiều, thiếu tập trung. Nhiều nơi phải đề nghị nhân dân gửi ý kiến bằng văn bản, sau đó tiếp thu, tổng hợp giao cho bộ phận, cơ quan chức năng trả lời.
Một số cấp ủy còn lúng túng trong việc lựa chọn, xác định hình thức, nội dung đối thoại nên ý kiến trao đổi tại hội nghị dàn trải. Ví như ở xã Đồng Phúc (Yên Dũng), do không định hướng trọng tâm, thiếu sự gợi mở của người chủ trì, điều hành nên hội nghị đối thoại giữa lãnh đạo Đảng ủy xã với người dân (tháng 10-2016) chỉ có 9 ý kiến, dàn đều ở nhiều lĩnh vực: Đường giao thông, môi trường, tranh chấp đất đai, phát triển kinh tế, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Phần lớn ý kiến đã được người dân phản ánh, kiến nghị tại các buổi tiếp xúc cử tri trước đó.
Thực tiễn tổ chức đối thoại ở nhiều địa phương cho thấy, để hoạt động này phát huy hiệu quả, trước hết các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu coi đây là một trong những giải pháp để đổi mới phương thức lãnh đạo. Xác định đó là nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ.Thay vì trước đây, khi nảy sinh những vấn đề bất cập, người dân đến các cơ quan công quyền phản ánh thì nay cấp ủy, chính quyền các cấp chủ động "tìm” đến người dân để lắng nghe, nắm bắt và giải đáp. Có thể vẫn còn có kiến nghị chưa được giải quyết dứt điểm, nhưng khi người đứng đầu, lãnh đạo chủ chốt gặp gỡ, tiếp xúc, người dân được trực tiếp lắng nghe chủ trương, chính sách từ các đồng chí lãnh đạo, được trả lời, giải thích những khó khăn, thắc mắc sẽ phần nào hài lòng, phấn khởi và tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng. Ông Nguyễn Văn Thịnh, Chủ tịch UBND huyện Hiệp Hòa cho biết: "Đối với hầu hết các vụ khiếu nại kéo dài, phần lớn người dân muốn người đứng đầu trực tiếp trả lời, giải quyết. Đối thoại vì vậy là biện pháp hiệu quả để thực hiện mong muốn chính đáng ấy. Thực tế ở Hiệp Hòa, nhiều vấn đề nổi cộm được giải quyết, tạo sự thông cảm và đồng thuận của nhân dân bắt nguồn chính từ các cuộc đối thoại”.
Hoạt động đối thoại định kỳ cơ bản tổ chức thành nền nếp, tạo nhiều kết quả thiết thực. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm ở các huyện Lục Nam, Tân Yên, Hiệp Hòa… có thể thấy, nhờ cấp ủy, chính quyền đối thoại theo chuyên đề và đối thoại đột xuất nên việc triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đạt hiệu quả, giải quyết kịp thời những vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của cấp mình. Đây là một gợi ý quan trọng để các địa phương mở rộng hình thức đối thoại, qua đó góp phần tổ chức triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH, các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đề ra.Bên cạnh đó, trong quá trình đối thoại, tránh việc độc thoại, dành quá ít thời gian cho người dân phát biểu ý kiến; xác định chủ đề phù hợp, bám sát thực tiễn, tạo không khí sôi nổi, thẳng thắn và dân chủ. Đặc biệt, để có cuộc đối thoại hiệu quả đòi hỏi thực hiện tốt khâu chuẩn bị. Trong đó, phân công trách nhiệm cụ thể và đề cao tinh thần trách nhiệm đối với công tác tham mưu, phối hợp tổ chức của cơ quan chuyên môn với các ban, ngành, đoàn thể. Sau đối thoại, cấp ủy, chính quyền tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm; chỉ đạo, đôn đốc giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh do nhân dân phản ánh. Định kỳ báo cáo tiến độ, kết quả giải quyết theo yêu cầu của cấp ủy cấp trên.
Với trách nhiệm là đơn vị chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp BTV Tỉnh uỷ theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy định trên, đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy nhìn nhận: "Từ sự chủ động, tích cực của cấp ủy các cấp, hoạt động đối thoại từng bước đi vào nền nếp. Các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch tiếp xúc cho người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Việc đối thoại tiến hành công khai, dân chủ, khách quan trên tinh thần xây dựng vì lợi ích chung. Người đứng đầu trực tiếp chỉ đạo, giải quyết những kiến nghị, bức xúc ngay tại thời điểm tổ chức đối thoại, qua đó nâng cao vai trò, trách nhiệm trước nhân dân, góp phần thiết thực đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng theo phương châm sát dân, gần dân, hiểu dân và làm cho dân tin”.
Sau quá trình xây dựng và bước đầu triển khai nghị quyết, đề án, kế hoạch, năm 2017 là năm các cấp ủy tập trung chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đề ra. Thực hiện điều này, bên cạnh những chủ trương, định hướng đúng cũng cần có sự đồng thuận cao từ nhân dân. Chính vì vậy, thực hiện tốt hoạt động tiếp xúc, đối thoại sẽ góp phần tạo mối quan hệ gắn bó, mật thiết giữa nhân dân với Đảng; tạo thuận lợi để nhân dân góp ý xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, tham gia phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
ĐỂ NÔNG THÔN MỚI KHÔNG CÒN RUỘNG HOANG
Giải B, năm 2016
Nhóm tác giả: Bích Ngọc, Hữu Tuấn
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
PV: Người nông dân 1,2,3
Đ |
ó là thực trạng đã và đang xảy ra ở Bắc Giang… Ruộng đất bị bỏ hoang… tài nguyên bị lãng phí… Người nông dân đánh mất tấc đất tấc vàng trên chính quê hương mình… Thực trạng này thời gian qua đã khiến chính quyền các cấp lúng túng tìm giải pháp. Trong khi để giải quyết được nó, đòi hỏi phải có những sáng kiến mới, cách làm mới từ cơ sở, phù hợp với thực tế…
Vốn là chân đất 2 vụ lúa, 1 vụ màu, lại nằm sát đường tỉnh 293, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Vậy nhưng đã từ 2 năm nay, khu cánh đồng rộng gần 5 chục ha này của xã Yên Sơn huyện Lục Nam không có người canh tác… Họa hoằn mới thấy bóng dáng của người nông dân. Họ là một trong số rất ít người trong thôn còn bám đất, bám ruộng, cố gắng vỡ vạc trên mảnh đất này.
PV: Ông Nguyễn Văn Mạch, thôn Trại 2, xã Yên Sơn, Lục Nam.
Xã Yên Sơn hiện có hơn 700ha đất sản xuất nông nghiệp, nhưng diện tích đất bỏ hoang hoàn toàn lên tới 80ha, và bỏ 1 vụ là 150ha. Theo lãnh đạo địa phương thì hầu hết các hộ dân trong xã hiện nay đều không mấy mặn mà với đồng ruộng.
PV: Ông Vũ Văn Truyền, Chủ tịch UBND xã Yên Sơn, Lục Nam
Không chỉ xã Yên Sơn, tình trạng đất nông nghiệp bị bỏ hoang xuất hiện ở Bắc Giang từ năm 2010 với mức độ ngày càng tăng dần, tỷ lệ thuận với phát triển công nghiệp, dịch vụ. Đỉnh điểm là trong năm 2015 khi toàn tỉnh thống kê được gần ? ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang và không được khai thác hết, chiếm ? diện tích đất sản xuất nông nghiệp của cả tỉnh.
Không dừng lại ở Bắc Giang, tình trạng đất nông nghiệp bị bỏ hoang cũng xảy ra ở nhiều địa phương khác trong cả nước, trở thành một vấn nạn chung đáng báo động. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT tỉnh ít cũng có tới vài trăm ha, trong khi những tỉnh nhiều con số này lên tới cả nghìn héc. Với một nước có đến 50% lao động sống nhờ nông nghiệp như Việt Nam thì đây không phải là vấn đề nhỏ. Nó phản ánh không chỉ sự khó khăn, lúng túng trong việc tìm phương thức sản xuất, canh tác, tìm cơ hội mưu sinh của người nông dân. Mà đó còn là dấu hiệu đổi thay trong tình cảm, thái độ đối của người nông dân đối với chính truyền thống sản xuất nông nghiệp.
PV: GS.TS Đặng Hùng Võ, Nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT
Tại Bắc Giang, liên tiếp trong mấy năm liền, dù tỉnh đã đẩy mạnh việc dồn điền, đổi thửa, thiết kế lại đồng ruộng, kết hợp chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới… Tuy nhiên những giải pháp này vẫn chưa kéo được người nông dân trở lại với đồng ruộng.
Chính trong bối cảnh ấy, việc gom ruộng hoang để canh tác, xây dựng mô hình sản xuất chuyên canh cho thu nhập cao của một số hộ dân, lại trở thành chìa khóa hữu hiệu.
"Phù thủy đất hoang”, chính là cái tên thứ 2 mà người dân xã Nghĩa Phương huyện Lục Nam vẫn thường gọi anh Nguyễn Văn Đoàn, người mà chỉ trong vòng 2 năm đã có thể biến khu ruộng xơ xác vì đói nước của người dân thành vườn cây trái xum xuê với thu nhập lên tới cả tỷ đồng. Có được kết quả này là do anh Đoàn đã mạnh dạn thuê, gom lại 4 ha diện tích đất hoang và đất cấy lúa 1 vụ không ăn chắc của người dân trong thôn, rồi đưa các giống cây mới về trồng. Vụ thu hoạch đầu tiên năm 2015, trừ chi phí, anh thu lãi 900 triệu. Năm 2016, anh Đoàn dự kiến sẽ thu về khoảng 1,5 tỷ đồng.
PV: Anh Nguyễn Văn Đoàn, thôn Kỳ Sơn, xã Nghĩa Phương, Lục Nam
Cũng với hình thức gom đất hoang và đất không khai thác hết của người dân, Tổ hợp tác Cây thuốc Việt của ông Phan Xuân Trụ, thôn Cát, xã Đức Giang lại có một cách làm khác. Đầu năm 2015, ông Trụ cùng 4 thành viên, đã chủ động thuê lại toàn bộ diện tích đất cấy lúa 1 vụ không ăn chắc của 2 xã Đức Giang và Tư Mại huyện Yên Dũng, quy mô 11 ha, để trồng các loại cây dược liệu. Đến nay chỉ sau 2 vụ, mô hình đã khẳng định được hiệu quả trong viêc hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung và cho thu nhập gấp nhiều lần so với trồng lúa.
PV: Ông Phan Xuân Trụ, GĐ Tổ hợp tác cây thuốc Việt
Vậy là, tích tụ và tập trung ruộng đất bỏ hoang đã đem mang đến sự hồi sinh cho nhiều cánh đồng. Nỗi lo nông dân bỏ ruộng, hoang phí tài nguyên đã giảm bớt. Từ một số thành công bước đầu, tỉnh Bắc Giang đã vào cuộc, chỉ đạo các địa phương khuyến khích và đồng hành cùng người dân nhân rộng các mô hình.
Tại Yên Dũng, thay vì để cá nhân, doanh nghiệp tự làm các thủ tục thuê đất, lần đầu tiên, chính quyền ở đây đã đứng ra làm trung giantập trung ruộng đất trước khi kêu gọi doanh nghiệp hoặc người nông dân có vốn vào địa bàn. Cánh đồng rau sạch qui mô 11ha tại xã Tiến Dũng là kết quả của một cách làm như thế:
PV: Ông Nguyễn Xuân Tiến, Trưởng phòng Nông nghiệp Yên Dũng
PV: Ông Nguyễn Quang Thanh, Giám đốc HTX rau sạch Yên Dũng
Không hề dễ dàng và không phải khi nào cũng trôi chảy khi triển khai những cái mới, bởi đến nay vẫn chưa có một cơ chế, chính sách nào rõ ràng cho người nông dân tích tụ ruộng đất. Khắc phục vướng mắc này, tỉnh Bắc Giang xác định: tích tụ ruộng đất theo phương thức thuê mượn ruộng sẽ trở thành một hướng đi giúp cho việc xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh qui mô lớn có sự liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị, mang lại hiệu quả kinh tế cao, trong khi vẫn đảm bảo giữ được đất ruộng cho người nông dân.
PV: Ông Vũ Đình Phượng, PGĐ Sở NN&PTNT Bắc Giang
Xác định được hướng đi, cộng với cơ chế hỗ trợ, khuyến khích phù hợp, các mô hình tích tụ ruộng đất trên địa bàn tỉnh lần lượt xuất hiện với quy mô từ vài ha đến vài chục ha. Hình thức thuê mượn cũng đa dạng hơn như: giữa nông dân với nông dân, nông dân với hợp tác xã, nông dân với doanh nghiệp…
Đáng chú ý là đã bước đầu xuất hiện mô hình kinh tế tập trung đất đai thông qua doanh nghiệp dưới hình thức nông dân góp vốn bằng đất, trở thành cổ đông của công ty. Với cách làm ấy, người nông dân vừa được chia cổ phần, vừa được trả tiền công lao động trên chính mảnh đất của mình.
PV: Ông Vũ Văn Kiên, Giám đốc HTX rau củ an toàn Phi Mô, Lạng Giang
Không dừng lại ở tích tụ ruộng đất, tạo môi trường cho nhà nông, nhà doanh nghiệp bắt tay nhau cùng liên kết sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học ông nghệ cũng là vấn đề đang được tỉnh đặc biệt quan tâm. Nghị quyết 130 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp được ban hành mới đây, với những ưu tiên đặc biệt cho các mô hình kinh tế tập trung, có sự tham gia hợp tác, liên kết của các thành phần kinh tế, đã một lần nữa khẳng định thêm quyết tâm của tỉnh trong hướng đi này.
PV: Ông Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang
Vấn đề cấp bách hiện nay của tỉnh là cần xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp, với những quy định cụ thể, rõ ràng về thuê, mượn và tích tụ đất, để tạo điều kiện cho người nông dân sản xuất nông nghiệp phát triển, ổn định và bền vững. Chắc chắn việc tích tụ đất đai một cách đúng đắn và hợp lý sẽ giúp cho nhiều hộ nông dân thoát khỏi đói nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng.
PV: GS.TS Đặng Hùng Võ, Nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT
Trở lại với xã Yên Sơn, một cách làm mới được nhen nhóm khi chính quyền và người dân nơi đây đang tất bật chuẩn bị các thủ tục cần thiết cho một doanh nghiệp đến thuê đất trồng ngô trên khu vực đất hoang này.
PV: Bà Hà Lan Anh, Giám đốc Công ty Cp sản xuất và thương mại Lộc Thành
Vẫn còn ở phía trước- những thành quả mới. Chỉ biết rằng một khi chính quyền, doanh nghiệp và người dân đã và đang bắt tay nhau, nỗ lực hết mình để hồi sinh cho mảnh đất thì người nông dân hoàn toàn có đủ cơ sở để tin rằng: Họ sẽ không phải đơn độc trên đồng đất quê mình… Một sự sống mới đang đến gần, kéo theo những đổi thay đang dần hình thành trong các vùng nông thôn tỉnh Bắc Giang. Và nhìn xa hơn, đó có thể là cuộc mở đường cho những khởi sắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Bắc Giang và nhiều địa phương khác, đặc biệt là trên hành trình trả lại màu xanh cho ruộng hoang, đem đến những no ấm, đủ đầy và lạc quan mới cho những vùng quê vốn đã đi qua nhiều thăng trầm của thời cuộc.
HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI – GỠ "NÚT THẮT”
TRONG LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ
Giải B, năm 2016
Nhóm tác giả: Thu Thủy, Giang Nam,
Quang Vĩnh, Trọng Quân
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
K |
hông có sự gắn kết giữa các thành viên… Mạnh ai người ấy làm… Không ràng buộc trách nhiệm… Chế độ phân phối bình quân… Sở hữu chung được đề cao, sở hữu cá nhân gần như không được tính đến… Phạm vi hoạt động bị bó hẹp… thiếu sự liên kết… Hạn chế của mô hình hợp tác xã kiểu cũ tồn tại nhiều năm nay ở Bắc Giang đã tác động đến việc liên kết sản xuất giữa các hộ xã viên với các hoạt động sản xuất, chuyển giao khoa học công nghệ, chế biến tiêu thụ. Việc liên kết chuỗi giá trị vì thế cũng khó hình thành. "Nút thắt” trong liên kết chuỗi giá trị từng bước được tháo gỡ khi mô hình hợp tác xã được hình thành, Luật Hợp tác xã sửa đổi có hiệu lực.
Tít: Hợp tác xã kiểu mới – Gỡ "nút thắt” trong liên kết chuỗi giá trị
Cách đây ít năm, vải thiều Bắc Giang, một loại nông sản có sản lượng hàng trăm nghìn tấn mỗi năm đã từng bị ép giá và rơi vào tình cảnh "được mùa rớt giá” do thiếu sự liên kết. Nhiều người chán nản phá bỏ diện tích vải thiều. Thời điểm ấy, các xã viên của Hợp tác xã nông nghiệp sản xuất và kinh doanh dịch vụ tổng hợp Hồng Xuân, huyện Lục Ngạn cũng ở trong tình trạng tự sản xuất, tự tiêu thụ và gần như không có gì gắn kết ràng buộc với hợp tác xã. Tuy nhiên, sau khi được chuyển đổi, củng cố và kiện toàn, hợp tác xã này đã tạo được "cầu nối” quan trọng trong việc liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ.
PV: Ông Nguyễn Văn Đoạt, Xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn
(Hạn chế tình trạng không bán được sản phẩm, không bị ép giá do HTX tìm đầu ra…)
Có vốn sản xuất, trách nhiệm của thành viên nâng cao, hợp tác xã đã xác định được mục tiêu hoạt động, chủ động trong sản xuất, liên kết tiêu thụ và tạo được giá trị ở từng khâu. Hiện nay, hợp tác xã đã liên kết được với nhiều doanh nghiệp để xuất khẩu vải thiều. Những thành viên của hợp tác cũng là những người nông dân đầu tiên ở huyện Lục Ngạn sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn Globalgap – một tiêu chuẩn thực hành sản xuất nông nghiệp tiên tiến tòan cầu. Bên cạnh đó, hợp tác xã cũng đã mở rộng diện tích và nâng cao giá trị của các loại cây có múi và nhiều cây ăn quả khác. Doanh thu và lợi nhuận của hợp tác xã vì thế đã tăng lên theo từng năm. Kết thúc năm 2015, doanh thu đạt 12 tỷ đồng và dự kiến sẽ đạt 20 tỷ đồng vào năm nay. Ngoài việc phân phối dựa trên nguồn vốn góp, lợi nhuận của hợp tác xã được trích lập Quỹ phát triển, Quỹ rủi ro và Quỹ phúc lợi.
PV: Ông Phạm Văn Dũng, Giám đốc HTX nông nghiệp SX và KD DVTH Hồng Xuân, Bắc Giang
(Phân chia thu nhập, trong đó có cả quỹ đầu tư, phúc lợi…)
Luật Hợp tác xã sửa đổi năm 2012 đã đề cập khá nhiều đến vấn đề tài chính của hợp tác xã. Thay vì chỉ góp tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất khi tham gia vào hợp tác xã như trước đây, các hợp tác xã ở Bắc Giang hiện nay đều góp vốn khi thành lập mới.
Ngay khi thành lập vào tháng 12/2015, gần 20 thành viên trong hợp tác nông nghiệp Hưng Thịnh, huyện Hiệp Hòa đã cùng nhau góp vốn để hoạt động với mức bình quân 30 triệu đồng một người. Các thành viên hợp tác xã đồng thời là chủ sở hữu, vừa là khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Phương án sản xuất kinh doanh được thống nhất theo nhu cầu cầu, nguyện vọng của các thành viên. Cơ chế phân phối thu nhập được dựa trên vốn góp, tỷ lệ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã.
PV: Ông Đặng Văn Hưng, Giám đốc HTX nông nghiệp Hưng Thịnh, Hiêp Hòa
(Phát huy trách nhiệm, các thành viên đều có trách nhiệm…)
Gần một năm trước, cánh đồng sản xuất rau chế biến xuất khẩu tập trung này của hợp tác xã nông nghiệp Hưng Thịnh vẫn là những thửa ruộng manh mún của hơn 100 hộ nông dân ở địa phương. Các thành viên của hợp tácnông nghiệp Hưng Thịnh, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa đã tự dồn đổi, thuê lại ruộng để hình thành vùng sản xuất tập trung có diện tích gần 10 ha. Với sản phẩm chủ lực là rau quả chế biến, ngoài việc góp vốn, hợp tác xã đã đảm nhiệm cung cấp dịch vụ vật tư phân bón, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho các thành viên và hợp đồng với doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Và điều này đã tạo được giá trị, đem lại hiệu quả kinh tế cho từng hộ xã viên và hợp tác xã.
PV: Ông Đặng Văn Hải, Hợp tác xã nông nghiệp Hưng Thịnh, Hiệp Hòa
(Có hợp tác xã đứng ra… hiệu quả sản xuất gấp 10 trồng lúa…)
PV: Ông Đặng Văn Hưng, Giám đốc HTXã nông nghiệp Hưng Thịnh, HiệpHòa
(Có lợi nhuận, tăng được vốn góp của các thành viên, nâng vốn HTX…)
Tự nguyện, tự chủ, bình đẳng, tương trợ là bản chất của quan hệ trong hợp tác xã kiểu mới. Điều này hòan tòan khác so với hợp tác xã kiểu cũ trước đây là quan hệ phụ thuộc và đáp ứng được yêu cầu của hội nhập. Sự thay đổi này đã tác động trực tiếp đến việc thay đổi về hình thức sở hữu, vấn đề góp vốn, chính sách thu nhập, phân phối lợi ích. Hợp tác xã kiểu mới, giờ đã có thể tạo ra được các giá trị bình đẳng, hài hòa lợi ích và có nhiều cơ sở để phát triển bền vững, thực hiện liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ.
PV: Ông Nguyễn Trung Điện, Giám đốc Hợp tác xã Lúa Vàng, Yên Dũng
(Sự ưu việt của mới và cũ… Liên kết chuỗi…)
Hợp tác xã Thân Trường, huyện Yên Thế thành lập sau khi Luật hợp tác xã năm 2012 có hiệu lực. Bám sát vào những điểm mới, ưu việt của quy định mới để định hướng hoạt động. Hoạt động trong nhiều lĩnh vực nhưng hợp tác xã này đã mạnh dạn xây dựng chuỗi giá trị đối với sản phẩm chè Bản Ven. Để thực hiện được chuỗi giá trị, hợp tác xã này đã liên kết sản xuất với gần trăm hộ gia đình Cao Lan ở bản Ven, xã Xuân Lương để sản xuất, đứng ra thu mua bao tiêu và xây dựng mạng lưới phân phối tiêu thụ sản phẩm. Những hơp đồng sản xuất tiêu thụ được ký kết với từng hộ.
PV: Ông Hoàng Văn Đại, Giám đốc Hợp tác xã Thân Trường, Yên Thế
(Liên kết các hộ ngòai thành viên…)
Diện tích chè trồng theo tiêu chuẩn Vietgap mà hợp tác xã Thân Trường liên kết sản xuất đã phát triển lên hơn 50 ha với doanh thu đạt 300 triệu đồng/ha. Doanh thu từ sản phẩm Chè của HTX đã đạt vài tỷ đồng mỗi năm… Những người nông dân ở bản Ven, xã Xuân Lương từ chỗ chỉ sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống giờ đã tiếp cận được với những tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, ổn định chất lượng. Cũng từ việc ứng dụng khoa học trong việc thâm canh cây chè mà hơn một mẫu chè của gia đình ông Nguyễn Văn Thành ở bản Ven cho năng suất cao gấp hai lần so với trước đây.
PV: Ông Nguyễn Văn Thành, Bản Ven, xã Xuân Lương, huyện Yên Thế
Từ việc liên kết trong sản xuất và tiêu thụ của hợp tác xã Thân Trường, người nông dân đã nâng cao thu nhập, hợp tác xã tăng thêm doanh thu, có lợi nhuận. Các thành viên vì thế cũng có nhiều lợi ích hơn. Và đây là một điểm khác biệt của mô hình hợp tác xã kiểu mới so với hợp tác xã kiểu cũ. Các hợp tác xã kiểu mới giờ đây đã có thể tự chủ trong cơ chế thị trường, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của mình. Mô hình hợp tác xã kiểu mới đang từng bước tháo gỡ những "nút thắt” trong liên kết chuỗi giá trị ở các hợp tác nông nghiệp của tỉnh Bắc Giang.
PV: Ông Hoàng Minh Tuấn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã tỉnh Bắc Giang
Trong nhiều cuộc hội thảo chuyên đề do tỉnh Bắc Giang tổ chức gần đây, một lần nữa, vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi tiếp tục được khẳng định. Ý kiến của các nhà khoa học, chuyên gia đã chỉ ra rằng, cần thiết phải có sự liên kết giữa các hộ nhỏ lẻ để xây dựng hợp tác xã bởi có như thế mới khắc phục được những hạn chế của việc sản xuất theo hộ cá thể và nâng cao vị thế của người nông dân, phát huy vai trò của kinh tế tập thể trong hội nhập kinh tế.
PV: Ông Lê Đức Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ NN&PTNT
Tỉnh Bắc Giang đã chuyển đổi xong các hợp tác xã theo Luật hợp tác xã sửa đổi. Nhiều hợp tác xã từ chỗ yếu kém thì nay đã từng bước khắc phục. Hoạt động của nhiều hợp tác xã không chỉ bị giới hạn, bó hẹp ở một địa phương, một lĩnh vực mà được mở rộng, thậm chí hợp tác với cả nước ngoài.
Những chuyến vải thiều tươi của Hợp tác xã Hồng Xuân, huyện Lục Ngạn đã vượt qua rào cản khắt khe, xuất ngoại một cách chính thống sang thị trường Úc, Mỹ, Nhật Bản và nhiều quốc gia khó tính khác.
BẮC GIANG - DẤU ẤN SAU 20 NĂM TÁI LẬP TỈNH
Giải B, năm 2016
Nhóm tác giả: Hải Hưng, Ngọc Sơn
Thể loại: Phim tài liệu
S |
au 35 năm có chung tên gọi Hà Bắc, ngày 1/1/1997, 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh lại được chia tách. Trong bối cảnh đó, tuy gặp phải rất nhiều những khó khăn, thách thức… song, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang đã kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng, năng động sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, tạo được nhiều chuyển biến tích cực. Và ngày nay sau 20 năm tái lập, trên mảnh đất Bắc Giang lịch sử đã có sự đổi thay mạnh mẽ từ bộ mặt đô thị đến nông thôn, kinh tế xã hội phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao...Đặc biệt là những tiềm năng, thế mạnh về đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực được khơi dậy và phát huy hiệu quả đã đưa Bắc Giang trở thành tỉnh phát triển khá toàn diện với nhiều chỉ số, lĩnh vực dẫn đầu khu vực Trung du, miền núi phía Bắc.
Đứng trước sự phát triển của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và những đòi hỏi nâng cao sự lãnh đạo của Đảng cũng như quản lý của Nhà nước… ngày 6/11/1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có quyết định chia tách tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1997.
Cùng với việc chia tách tỉnh, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) cũng ra Quyết định tái lập Đảng bộ tỉnh Bắc Giang gồm 14 đảng bộ trực thuộc với 740 tổ chức cơ sở đảng và trên 4,3 vạn đảng viên. Ngay sau khi tái lập, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo, khẩn trương kiện toàn bộ máy lãnh đạo các cấp của hệ thống chính trị. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã được tổ chức từ ngày 5 đến 7/11/1997 với nhiệm vụ: Tập trung đánh giá đúng thực trạng tình hình, khẳng định rõ thời cơ, tiềm năng, thế mạnh, cũng như những khó khăn đang ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới, trên cơ sở đó quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cùng các giải pháp trong nhiệm kỳ 1997 - 2000 và các năm tiếp theo.
PV: Ông Đỗ Bình Dương, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang
Năm 1997 sau khi chia tách, Bắc Giang đi vào xây dựng và phát triển từ một tỉnh nông nghiệp thuần tuý, với xuất phát điểm thấp, quy mô kinh tế nhỏ, tốc độ phát triển kinh tế chưa cao, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng thấp kém; giáo dục, y tế còn khó khăn, mức hưởng thụ của nhân dân trong các hoạt động xã hội, dịch vụ còn hạn chế… Song, được sự quan tâm của Trung ương, sự giúp đỡ của các bộ, ngành, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang đã phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, đoàn kết, thống nhất, sáng tạo vượt qua khó khăn, thách thức, quyết tâm phấn đấu đẩy mạnh công cuộc đổi mới để đạt được nhiều thành tựu quan trọng, hoàn thành toàn diện các mục tiêu đề ra qua 20 năm.
Một trong những kết quả nổi bật rõ nét nhất, đó là: Thu ngân sách nhà nước tăng mạnh, từ 367,5 tỷ đồng năm 1997 lên 4.352 tỷ đồng năm 2016. Tương ứng, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng từ 136,8 tỷ đồng lên hơn 36.100 tỷ đồng. Thu nhập của người dân tăng nhiều lần, từ mức bình quân đạt 180 USD/người lên gần 1.750 USD/người và phấn đấu đạt 2.000 USD/người vào năm 2017. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm của tỉnh (GRDP) duy trì liên tục ở mức cao, bình quân giai đoạn 1997-2015 đạt gần 10%/năm. Trong đó: giai đoạn 1997-2000 là 6,9%/năm, giai đoạn 2001-2005 là 8,3%/năm, giai đoạn 2006-2010 là 9%/năm, giai đoạn 2011-2015 là 9,5%/năm và năm 2016 đạt 10,4% - mức cao nhất trong 20 năm qua
PV: Ông Trịnh Hữu Thắng, Giám đốc Sở KH&ĐT tỉnh Bắc Giang
Đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh, lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phương đóng vai trò quan trọng. Nếu như năm 1997, toàn tỉnh mới có 18 doanh nghiệp quốc doanh, 25 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và trên 8.800 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, giá trị sản xuất đạt khoảng 157,9 tỷ đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 6,8 triệu USD... thì đến nay, trên địa bàn tỉnh có 5.761 doanh nghiệp, gần 600 HTX, hơn 10 nghìn tổ hợp tác. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2016 ước đạt 73.715 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu ước đạt 3.630 triệu USD. Đặc biệt là trên địa bàn tỉnh đã thực hiện quy hoạch và được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập 6 khu công nghiệp với quy mô trên 1.500 ha; 33 cụm công nghiệp ở tất cả các huyện, thành phố… Đến nay đã thu hút được 1.093 dự án đầu tư - trong đó có 839 dự án trong nước, tổng vốn đăng ký là 53.767 tỷ đồng; 254 dự án FDI vốn đăng ký hơn 3.473 triệu USD. Các ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn như ngành may mặc, điện tử... đều có sự sản xuất ổn định, là động lực chính cho tăng trưởng của ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn tiếp tục có sự phát triển mạnh mẽ; hiện toàn tỉnh có khoảng 15 ngàn hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, 435 làng có nghề, trong đó có 33 làng đạt tiêu chí làng nghề theo quy định.
Kết quả trên chính là do UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành chủ động nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, kịp thời thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sản xuất kinh doanh. Đồng thời tập trung cao cho công tác đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; thực hiện hiệu quả các hoạt động khuyến công, xúc tiến thương mại, tư vấn phát triển công nghiệp...
PV: Ông Trần Quang Tấn, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bắc Giang
Cùng với công nghiệp thì nông nghiệp vẫn là lĩnh vực được Tỉnh ủy – HĐND – UBND tỉnh coi trọng và tập trung chỉ đạo… Chính vì vậy, liên tiếp 20 năm qua lĩnh vực này luôn được mùa và phát triển, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực trong tỉnh mà còn dư thừa để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng ngoài tỉnh, công nghiệp chế biến, xuất khẩu và là tiền đề cho sự phát triển công nghiệp, dịch vụ, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh Bắc Giang. Đến nay trên địa bàn tỉnh, nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung được hình thành và đang tiếp tục được mở rộng. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơ giới hoá vào sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh. Đã đưa nhiều giống lúa mới có năng suất, chất lượng vào sản xuất, góp phần quan trọng nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Năng suất lúa đạt từ 39,2 tạ/ha năm 1997 lên 56,6 tạ/ha năm 2016. Bước đầu hình thành nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch, gắn với chế biến tiêu thụ sản phẩm với chuỗi giá trị trong nông nghiệp.
Theo đánh giá của Sở NN&PTNT: 20 năm qua, lĩnh vực nông nghiệp của tỉnh đã có những bước phát triển khá toàn diện, tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 4,3%/năm. Tuy có giảm về cơ cấu, nhưng quy mô tăng cao với giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 2.034 tỷ đồng năm 1997 lên 27.350 tỷ đồng năm 2016; giá trị sản xuất bình quân của 1 ha đất nông nghiệp đạt 90 triệu đồng/ha; cơ cấu nội ngành chuyển dịch tích cực, đã hình thành vùng cây ăn quả lớn nhất các tỉnh phía Bắc và một số vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp tập trung. Đồng thời, Bắc Giang còn trở thành tỉnh có thứ hạng về chăn nuôi.
PV: Ông Nguyễn Văn Khái, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang
Bên cạnh đó, khu vực nông thôn tiếp tục được quan tâm đầu tư; tư duy, kiến thức sản xuất, kinh doanh của một bộ phận nông dân có bước nâng lên. Việc triển khai thực hiện các chính sách về nông nghiệp, nông thôn được quan tâm chỉ đạo, chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai mạnh mẽvới 50 xã đạt chuẩn nông thôn mới, số tiêu chí nông thôn mới bình quân đạt được/xã là 13,2 tiêu chí.
Đi đôi với phát triển công nghiệp và nông nghiệp, kết cấu hạ tầng xã hội của tỉnh cũng liên tục được tăng cường - Do đó bộ mặt đô thị và nông thôn ngày một đổi mới. Với đặc thù là trung tâm chính trị, kinh tế - văn hoá - xã hội của tỉnh, những năm qua thành phố Bắc Giang đã có những bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, nhất là vào tháng 12 năm 2003 được công nhận là đô thị loại III và đến ngày 7/6/2005 đánh dấu một bước phát triển mới - đó là: Chính phủ ra Nghị định số 75 công nhận thành lập thành phố Bắc Giang… Vào đầu năm 2011 thành phố đã được mở rộng lên với quy mô 6.644 ha diện tích tự nhiên với 16 đơn vị hành chính trực thuộc. Và đến cuối năm 2014 được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Giang.
Một trong những nét nổi bật rõ nhất, đó là bộ mặt đô thị của thành phố đã có nhiều đổi thay, nhiều khu dân cư được mở rộng cùng với kết cấu của các dãy phố, ngôi nhà mang dáng dấp, kiểu dáng hiện đại, đã tạo nên một diện mạo mới khang trang. Công tác chỉnh trang cũng luôn được tập trung đầu tư, qua đó tạo chuyển biến về cảnh quan đô thị. Hiện thành phố đang tiếp tục tập trung cao cho xây dựng hạ tầng, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá và nâng cao chất lượng đô thị. Nhiều công trình trọng điểm đã cơ bản hoàn thành, tạo điểm nhấn của thành phố và phục vụ đắc lực cho đời sống dân sinh. Theo đánh giá của Hiệp hội các đô thị Việt Nam thì năm 2016 thành phố Bắc Giang là 1 trong 21 đô thị "Sáng, Xanh, Sạch" trên tổng số gần 800 đô thị cả nước.
PV: Ông Mai Sơn, Chủ tịch UBND thành phố Bắc Giang
Toàn tỉnh hiện có trên 1,6 triệu người với 21 dân tộc anh em sinh sống. Đồng bào các dân tộc trong tỉnh có đời sống văn hóa tinh thần phong phú với nhiều truyền thống, bản sắc văn hóa độc đáo còn được lưu giữ đến ngày nay. Bắc Giang cũng là một trong những tỉnh có hệ thống di sản văn hóa đậm đặc thuộc tốp đầu so với cả nước. Theo thống kê, toàn tỉnh có trên 2.000 di tích, trong đó có gần 700 di tích đã được xếp hạng. Có 2 di tích Quốc gia đặc biệt là di tích chùa Vĩnh Nghiêm và di tích Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế cùng 3 di sản là Quan họ, Ca trù, Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 11 di sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia với nhiều loại hình đặc sắc - như: Dân ca Cao Lan, dân ca Sán Chí; nghi lễ Then của dân tộc Tày, Nùng; Lễ hội Thổ Hà, Lễ hội Suối Mỡ… Đặc biệt trong khu vực Tây Yên Tử đã phát hiện một hệ thống di tích với trên 230 điểm, trong đó có nhiều điểm di tích gắn liền với sự hình thành và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm… Đây chính là những nhân tố quyết định tạo ra tiềm năng, thế mạnh to lớn để phát triển các loại hình du lịch, nhất là du lịch văn hóa - tâm linh - sinh thái trên địa bàn. Nhận thức được những tiềm năng, thế mạnh đó, Đảng bộ tỉnh đã xác định Chương trình phát triển du lịch là 1 trong 5 Chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm, qua đó nhằm tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư các nguồn lực, đưa du lịch từng bước phát triển tương xứng với tiềm năng thế mạnh sẵn có của địa phương. UBND tỉnh cũng đã ban hành Quyết định phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng bảo tồn tổng thể hệ thống di tích và danh thắng Tây Yên Tử, phát huy giá trị hệ thống di tích, danh thắng để phục vụ phát triển du lịch. Trong đó, riêng khu Đồng Thông, xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động được xác định là khu trung tâm, gồm các điểm chùa như: chùa Trình, chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thượng, có hệ thống cáp treo kết nối với chùa Đồng trên đỉnh núi Yên Tử. Hiện tại, khu du lịch này đang được đầu tư với nguồn vốn lên tới hàng nghìn tỷ đồng, các công trình xây dựng cũng đang được tích cực triển khai, hiện UBND tỉnh cũng đã giao cho các ngành chức năng xây dựng đề án chính thức tổ chức Lễ hội Tây Yên Tử của tỉnh Bắc Giang và lễ hội lần đầu tiên dự kiến sẽ được tổ chức vào xuân Đinh Dậu 2017…
PV: Ông Trần Minh Hà, Giám đốc Sở VHTT&DL tỉnh Bắc Giang
Chính điều kiện kinh tế, kết cấu hạ tầng phát triển… văn hóa xã hội vì thế cũng được chăm lo nhiều hơn. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học công nghệ và một số lĩnh vực khác có nhiều chuyển biến, tiến bộ; đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện, số hộ khá và giàu tăng, số hộ nghèo giảm nhanh. Đến nay toàn tỉnh chỉ còn 11,9% hộ nghèo theo chuẩn mới. Tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp học tăng từ 20% năm 1997 lên 84,8% năm 2016 và đã có 81,6% trường đạt chuẩn quốc gia; chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn cũng được nâng lên, trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc năm học 2015-2016, tỉnh Bắc Giang xếp thứ 7/63 tỉnh, thành trong cả nước về chất lượng giải. Bên cạnh đó, 13/16 bệnh viện được phê duyệt Đề án xã hội hóa và đang triển khai thực hiện; tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 90,9%, số giường bệnh/vạn dân là 22,8giường, tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt 82%. Công tác quản lý về ATVSTP được chỉ đạo quyết liệt, bước đầu phát triển chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn. Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, đời sống nhân dân cơ bản ổn định… Điều này đã mang lại chất lượng mới cho phát triển xã hội cũng như đóng vai trò động lực rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Cùng với đó, Công tác cải cách hành chính cũng có nhiều tiến bộ, ngày càng tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Việc đưa Trung tâm Hành chính công của tỉnh đi vào hoạt động từ ngày 01/9/2016đã tạo chuyển biến trong công tác tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính của các sở, ngành; kết hợp với việc áp dụng gửi, nhận kết quả qua hệ thống Bưu điện giúp các tổ chức, công dân không phải đi lại nhiều lần như trước đây. Bên cạnh đó, việc kiểm soát thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa điện tử hiện đại; công khai hoá, minh bạch hóa các quy định về thủ tục hành chính, từng bước hiện đại hóa nền hành chính, ứng dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 được tăng cường. Đặc biệt năm 2015, các chỉ số, như: Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh đứng thứ 40 trong toàn quốc; Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) đứng thứ 21 trong toàn quốc; Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) đứng thứ 10 toàn quốc.
PV: Ông Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang
Có được những kết quả trên là do Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chủ động vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, đề ra chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của tỉnh trong từng giai đoạn. Thông qua các kỳ Đại hội, Đảng bộ các cấp đã đề ra các Nghị quyết với các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng thuận cao. Đồng thời không ngừng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền theo hướng tập trung, dứt điểm, mạnh dạn phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho cấp dưới, hướng về cơ sở, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Quan tâm công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy và đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Kết hợp phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh của tỉnh với việc tích cực vận động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài…
PV: Đ/c Bùi Văn Hải, Ủy viên trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang
20 năm sau ngày tái lập tỉnh, Bắc Giang đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn thách thức. Phát huy truyền thống vẻ vang, hào hùng của quê hương đã được kết tinh từ hàng nghìn năm lịch sử, được vun đắp bằng máu xương của bao thế hệ, cùng với khát vọng vươn lên để xứng đáng với vị trí, tiềm năng và vị thế của tỉnh nhà… Đảng bộ, chính quyền cùng nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang quyết tâm tiếp tục đổi mới, chủ động, sáng tạo; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của địa phương; đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân… Phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra: đến năm 2020 tỉnh Bắc Giang nằm trong nhóm các tỉnh có thu nhập bình quân đứng đầu vùng trung du, miền núi phía Bắc và bằng bình quân cả nước; đến năm 2030 phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp… đem lại no ấm và hạnh phúc cho người dân.
RỪNG KHE RỖ BỊ TÀN PHÁ
Giải B, năm 2017
Nhóm tác giả: Giang Nam, Ngô Hùng.
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
T |
hưa quý vị và các bạn, trong thời gian gần đây liên tiếp trên địa bàn huyện Sơn Động xẩy ra các vụ chặt phá rừng. Mục tiêu mà các đối tượng lâm tặc hướng tới là các khu rừng bảo tồn và rừng đặc dụng. Nhiều cây gỗ quý có tuổi đời từ vài chục năm cho tới cả trăm năm cũng bị lâm tặc chặt hạ. Để thấy rõ được mức độ tàn phá và sự liều lĩnh của lâm tặc, PV thời sự đã có mặt tại hiện trường để phản ánh tình trạng này...
Sau hơn 1 giờ đồng hồ vượt qua những đoạn dốc đá treo leo, nguy hiểm nhóm phóng viên thời sự mới đến được khoảnh 19 và khoảnh 20 của rừng nguyên sinh Khe Rỗ tại bản Nà Ó, xã An Lạc. Những cây gỗ quý bị lâm tặc " xẻ thịt" nằm la liệt... trong số nhiều cây gỗ quý bị chặt hạ, hấu hết đã được lâm tặc bóc xẻ thành ván… vận chuyển ra khỏi rừng... Tại gốc những vết cưa vẫn còn chưa khô nhựa như những vết thương bị chảy máu.
Phỏng vấn: Người dân địa phương
Lâm tặc chỉ chọn cây gỗ to và quí để chặt hạ. Những cây lim có đường kính nửa mét với tuổi đời 50, 60 năm... những cây Sến cổ thụ có hàng trăm năm tuổi cũng bị chặt hạ... Vết cưa cũ chưa lành thì những vết cắt mới lại tiếp tục... Lâm tặc còn liều lĩnh mở ngay xưởng cưa trong rừng... Những hộp dầu tra vào lưỡi cưa còn sót lại… Cả khu rừng như một công trường ngổn ngang…
(Phóng viên dẫn hiện trường)
Không chỉ lộng hành phá rừng, có những vụ việc khi bị lực lượng chức năng phát hiện lâm tặc còn liều lĩnh chống trả một cách quyết liệt.
PV: Ông Tô Văn Chương, Đội bảo vệ rừng Khe Rỗ, BQL bảo tồn Tây Yên Tử
Rừng nguyên sinh Khe Rỗ có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn nguồn gen và đa dạng sinh học, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm. ( Biển báo) Có tầm quan trọng là vậy, thế nhưng rừng Khe Rỗ đang từng ngày bị "chảy máu”... Điều đó cho thấy sự ngang nhiên, táo tợn, bất chấp pháp luật của lâm tặc…
Giữa rừng đại ngàn… Cách Tổ bảo vệ rừng không xa, tiếng máy cưa của lâm tặc rít lên vang động… Gỗ quí bị đốn hạ ngày càng nhiều hơn.
Trước sự việc rừng nguyên sinh Khe Rỗ bị tàn phá, chính quyền địa phương và cơ quan chức năng đã làm gì? Trách nhiệm như thế nào sẽ được chúng tôi tiếp tục thông tin trong bản tin thời sự tiếp theo.
Rừng nguyên sinh Khe Rỗ bị tàn phá
Thưa quý vị và các bạn, trong bản tin thời sự tối ngày 30/10
và ngày 1/11 chúng tôi đã thông tin tới QV&CB về việc phá rừng đặc dụng
trên địa bàn huyện Sơn Động. Rất nhiều cây gỗ quý đã bị lâm tặc ngang nhiên đốn
hạ. Câu hỏi được đặt ra là tại sao lâm tặc lại có thể dễ dàng lộng hành đến như
vậy? Trách nhiệm của chính quyền địa phương và cơ quan chức năng đến đâu trong
việc để những cánh rừng nguyên sinh bị tàn phá? Trong CT thời sự hôm nay chúng
tôi sẽ dành một thời lượng để đề cập tới vấn đề này.
Hàng loạt gỗ quí bị đốn hạ
Đây là khu rừng lim đẹp nhất Tây Yên
Tử nằm trên địa bàn xã An Lạc… Lâm tặc bất chấp pháp luật hoành hành phá rừng
tan hoang… Gỗ quí bị đốn hạ khắp nơi… Càng lên đỉnh núi những cây gỗ lim, sến
có tuổi đời trên dưới 60 năm bị lâm tặc chặt phá ngày càng nhiều.
Những thân cây đổ gục vẫn còn lá héo trên cành chứng tỏ mới bị đốn hạ chưa lâu… mùn cưa còn tươi mới… những thân gỗ to lớn vài người ôm đã được lâm tặc bóc thành súc chuyển đi…
Thậm chí những đoạn đường khó đi lâm tặc còn lấy ván rải làm cầu để chuyển gỗ…
Tất cả tan hoang đến đau xót… Chưa bao giờ Rừng nguyên sinh Khe Rỗ lại oằn mình đau đớn như vậy.
Gỗ quí bị chặt phá đều nằm kề bên đường mòn. Lối mà tổ bảo vệ rừng thường đi tuần tra. Chưa có một số liệu chính thức về gỗ quí bị lâm tặc tàn phá ở đây. Nhưng rõ ràng thời gian lâm tặc phá rừng đã kéo dài nhiều tháng nay…
Trong khu rừng lim dễ dàng bắt gặp những dấu được khắc trên những thân cây lim. Người dân địa phương cho biết là dấu của lâm tặc "xí phần”. Số phận cây gỗ này sắp bị kết liễu…
"Hết nạc thì vạc đến xương”. Hết gỗ to thì sẽ đến những cây gỗ quí nhỏ hơn cũng sẽ bị lâm tặc chặt phá… Cứ tốc độ phá rừng như hiện nay, chắc chắn gỗ quí rừng nguyên sinh Khe Rỗ sẽ bị xóa sổ.
Chính quyền và Kiểm lâm nói gì?
BQL bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử hiện quản lý trên 12.000 ha rừng nằm trên địa bàn 2 huyện là Sơn Động và Lục Nam. Đây chủ yếu là rừng đặc dụng cần phải bảo vệ nghiêm ngặt vì liên quan tới công tác bảo tồn gen và nguồn sinh thủy. Vai trò quan trọng là vậy, thế nhưng thực tế cho thấy công tác quản lý và bảo vệ rừng ở đây vẫn còn nhiều bỏ ngỏ.
Hàng chục xe máy bị bắt… và cả những chiếc cưa máy trị giá chỉ hơn 2 triệu đồng/chiếc bị lực lượng kiểm lâm bắt giữ… Cưa máy 2 triệu nhưng đốn hạ một cây lim trị giá bán tới vài chục triệu… Đây là "ma lực” để lâm tặc phá rừng.
Tại tổ bảo vệ rừng khu vực Khe Rỗ cũng vừa tổ chức vây bắt lâm tặc… nhưng chỉ thu được chai xăng dùng cho cưa máy thế này.
… Rừng bị tàn phá ghê gớm… ngày càng nghiêm trọng hơn. Thế nhưng, khi được hỏi về số vụ phá rừng trong thời gian gần đây thì lãnh đạo BQL bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử lại khẳng định rằng đơn vị đã làm tròn trách nhiệm.
PV: Nguyễn Văn Sơn, Phó Hạt trưởng BQL bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử
Còn chính quyền địa phương nói gì?
PV: Ông Mã Văn Cảnh, Chủ tịch UBND xã An Lạc, huyện Sơn Động
Đó là lời khẳng định của ông Cảnh, Chủ tịch UBND xã An Lạc. Tuy nhiên, thực tế lại khác, số gỗ trong rừng ngày càng bị cạn kiệt bởi nạn lâm tặc hoành hành...
Không khí cuối thu tiết trời trở lạnh nhưng dư luận lại "nóng lên” câu chuyện rừng ở Sơn Động bị tàn phá… Câu chuyện lâm tặc ngang nhiên" xẻ thịt rừng nguyên sinh Khe Rỗ tại bản Nà Ó, xã An Lạc. Cảnh tượng thật xót xa… Những biển báo, những văn bản, và cả những lời nói rất "quyết tâm” bảo vệ rừng của cả chính quyền địa phương, của kiểm lâm có lẽ cũng chỉ nằm trên giấy… Bởi, rừng tiếp tục bị tàn phá.
PV: Ông Nguyễn Việt Ước, Phó chủ tịch UBND huyện Sơn Động
Qua thống kê, đến hết tháng 10 trên địa bàn huyện Sơn Động có gần 200 vụ phá rừng, chủ yếu là rừng tự nhiên Lực lượng kiểm lâm có họp… có kiểm điểm… Có cán bộ bị lâm tặc chống đối. Có người bị thương… Chính quyền địa phương cũng đề ra các giải pháp… Nhưng hầu như không có hiệu quả… Thực tế rừng tiếp tục bị ‘chảy máu” và ngày càng nghiêm trọng.
Đến nay, chưa có một vụ việc phá rừng khai thác gỗ trái phép nào bị khởi tố. Cho thấy, vẫn còn thiếu một chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm trước pháp luật những kẻ phá rừng, tạo sức răn đe. Và hơn nữa cần một tinh thần phối hợp và quyết tâm cao của lực lượng chức năng bảo vệ rừng. Còn nếu như công tác bảo vệ rừng vẫn còn nhiều bỏ ngỏ như hiện nay thì rừng nguyên sinh và rừng đặc dụng trên địa bàn huyện Sơn Động sẽ tiếp tục bị tàn phá nặng nề...
TỪ TIA LỬA THỔI BÙNG LÊN NGỌN LỬA
Giải B, năm 2017
Nhóm tác giả: Thu Thủy – Quang Vĩnh – Trọng Quân
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
K |
inh tế hội nhập… chính sách đổi mới đã khiến cho làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào nước ta gia tăng mạnh mẽ, trở thành khu vực có đóng góp rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam… Đảng ta sớm có chủ trương về việc tăng cường xây dựng Đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước mà trong đó có khu vực doanh nghiệp FDI. Tại tỉnh Bắc Giang, bám sát chủ trương này, Nghị quyết được ban hành… Kế hoạch được triển khai với mục tiêu mỗi năm phát triển 10 – 20 đảng viên, thành lập 1- 2 tổ chức đảng trong doanh nghiệp nước ngoài. Nói thì dễ nhưng bắt tay làm mới khó bởi rất nhiều quan điểm trái ngược, chưa đồng thuận của chủ doanh nghiệp.
PV: Ông Nguyễn Xuân Vượng, Bí thư Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh
(Rất khó để triển khai).
PV: Ông Fuji Wara, TGĐ Công ty TNHH Nirchirin Việt Nam
(Lời dịch: Tôi không để ý, không biết nhiều đến Đảng cộng sản Việt Nam)
Triển khai như thế nào….Bắt đầu từ đâu…? Những câu hỏi này đã trở thành trăn trở rất lớn của Tỉnh ủy Bắc Giang khi mà Nghị quyết của Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI nhiệm kỳ 2005 – 2010 đề cập đến lĩnh vực phát triển tổ chức đảng ở khu vực nước ngoài nhưng hơn 10 năm vẫn "dậm chân” tại chỗ… Khó khăn trong thực tiễn đã đòi hỏi phải có cách làm sáng tạo. Ban chỉ đạo cấp tỉnh về phát triển tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ngoài nhà nước, trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập.
PV: Ông Thân Văn Khoa, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Bắc Giang
(Phân công, thành lập một chi bộ tại khu công nghiệp)
Công tác lãnh đạo được tăng cường… Quan điểm chỉ đạo: rõ người… rõ việc… rõ nhiệm vụ. Đảng ủy khối doanh nghiệp bắt tay ngay vào việc… Mục đích hướng tới là khơi thông tư tưởng, nhận thức của chủ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo sự đồng thuận, ủng hộ để phát triển tổ chức đảng và tập hợp quần chúng công nhân lao động ưu tú.
PV: Ông Nguyễn Xuân Vượng, Bí thư Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh
(Thành lập Tổ vận đông, phân công rõ đối với từng người, từng khu CN)
Đây không phải là lần đầu tiên ông Nguyễn Minh Chiến, Bí thư Chi bộ các doanh nghiệp khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang bị từ chối và và phải chờ đợi khi đề xuất gặp chủ doanh nghiệp là người nước ngoài. Nhiều lần lỡ hẹn… Nhiều lần túc trực… nhưng không nản lòng… Không ngại khó, ông Chiến vẫn lăn xả với nhiệm vụ được phân công "đả thông” tư tưởng chủ doanh nghiệp, tập hợp quần chúng.
PV: Ông Nguyễn Minh Chiến, Bí thư Chi bộ các doanh nghiệp KCN tỉnh
(Rất gian nan… Nhưng không có gì là khó, quyết tâm sẽ làm được).
Khó khăn không lùi bước… Chí khí người công sản thể hiện rõ… Sự nhiệt tình, kiên trì, vững tin… đã khiến những buổi gặp gỡ giữa tổ chức Đảng và chủ doanh nghiệp nước ngoài thường xuyên hơn. Những người làm công tác "nhóm lửa” búa liềm đã tìm được "nút thắt”.
PV: Ông Nguyễn Minh Chiến, Bí thư Chi bộ các doanh nghiệp KCN tỉnh
(Tìm được điểm chung giữa mục tiêu phát triển tổ chức Đảng và mục tiêu của doanh nghiệp).
"Nút thắt” được tháo gỡ… Việc vận động, tập hợp, bồi dưỡng quần chúng trong doanh nghiệp nghiệp nước ngoài vào tổ chức Đảng đã bớt khó khăn hơn. Đối tượng ở đây là những người tham gia Ban chấp hành Công đoàn, công nhân ưu tú có trình độ, tham gia quản lý ở các bộ phận, đảm nhiệm vị trí quan trọng trong doanh nghiệp. Khi lực lượng này nhận thức đầy đủ, được bồi dưỡng, rèn luyện và đứng được vào hàng ngũ của đảng đã trở thành những tấm gương tiên phong trong mọi hoạt động phong trào tại doanh nghiệp.
PV: Đảng viên Nguyễn Minh Tiến, Công ty TNHH Nirchirin Việt Nam
(Muốn làm tốt để chủ ngước ngoài có suy nghĩ, đánh giá tốt về đảng viên).
Anh Lê Văn Huân là đảng viên đầu tiên tại công ty TNHH Sungwo Vina, một doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn Quốc. Trong vai trò Chủ tịch Công đoàn, anh Huân thường xuyên nêu cao vai trò tiên phong của đảng viên… Xông xáo trong công việc… Tổ chức tốt các phong trào thi đua nhằm tăng năng suất, hiệu suất lao động, tiết kiệm chi phí. Sự năng nổ, trách nhiệm của những người đảng viên như anh Huân trở thành những tấm gương tiên phong… Hình bóng những đảng viên, lá cờ búa liềm trong doanh nghiệp nước ngoài băt đầu lóe sáng.
PV: Chị Nguyễn Thị Hương, Công ty Sung Wo Vina
(Thấy các anh chị đảng viên nhiệt tình, gương mẫu… muốn làm được điều này).
Tại doanh nghiệp của anh Huân hiện đã có 10 đảng viên đứng trong hàng ngũ của Đảng… Người đảng viên đầu tiên trong doanh nghiệp nước ngoài này giờ đã trở thành Bí thư Chi bộ các doanh nghiệp khu công nghiệp Đình Trám có gần 40 đảng viên. Ở vai trò mới, anh đã nhiều lần trăn trở, tìm tòi những cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tiễn để công tác xây dựng đảng không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp và quyền lợi người lao động.
PV: Anh Lê Văn Huân, Bí thư Chi bộ doanh nghiệp KCN Đình Trám
(Bồi dưỡng, sinh hoạt ngoài giờ… ứng dụng công nghệ để triển khai nội dung).
Hiện nay, trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hàng chục doanh nghiệp đã có Chủ tịch công đoàn trở thành đảng viên. Khi Chủ tịch Công đoàn là đảng viên, Ban chấp hành Công đoàn có thêm những đảng viên, vai trò của Công đoàn đã được phát huy. Mối quan hệ lao động trở nên hài hòa.
PV: Ông Nguyễn Ngọc Việt, PCT Liên đoàn Lao động tỉnh
(Mối quan hệ hài hòa, giảm đình công, đảm bảo quyền lợi người lao động).
Hình ảnh của người đảng viên đã tạo được những dấu ấn tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp FDI… có tinh thần trách nhiệm, chủ động đảm nhận việc khó và làm lợi cho doanh nghiệp. Vai trò của tổ chức Công đoàn có đảng viên được nâng cao. Thực tiễn này đã khiến suy nghĩ của chủ doanh nghiệp nước ngoài về tổ chức Đảng cộng sản tại Việt Nam giờ đây đã thay đổi. Nhiều người trước đây đã từng phản đối, không để ý đến tổ chức Đảng của Việt Nam nay đã có quan điểm khác.
PV: Ông Fuji Wara, TGĐ Công ty TNHH Nirchirin Việt Nam
(Lời dịch: Trước đây, tôi chưa hiểu về tổ chức Đảng của các bạn nhưng sau những buổi gặp gỡ, sau khi được tuyên truyền, trao đổi và thực tế tại doanh nghiệp, tôi thấy có đảng viên trong công ty rất tốt. Đó là những lao động mà chúng tôi đang răt cần. Chúng tôi sẽ tạo điều kiện để các bạn công nhân được tham gia).
PV: Ông Park Jea Joung, Giám đốc Nhân sự Công ty TNHH Heam Vina
(Lời dịch: Chúng tôi thấy, các bạn là đảng viên làm việc ở Công đoàn, nhiều bộ phận sản xuất giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn. Chúng tôi muốn sẽ có thêm nhiều người trong công ty là đảng viên, tham gia tổ chức Đảng của Việt Nam)
Một chủ trương đúng đắn… Cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đã khẳng định hiệu quả… Từ….1…2…3… đảng viên ban đầu…giờ đây, số đảng viên tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã lên đến gần 100 người. Gần 40 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có đảng viên… Hai tổ chức Đảng đã được thành lập và trong ít ngày nữa sẽ có thêm một vài chi bộ khác thành lập… Bắc Giang trở thành một điểm sáng, là một trong số ít các địa phương của cả nước đã thành lập được tổ chức Đảng và có nhiều đảng viên trong khu vực doanh nghiệp FDI.
Làn sóng đầu tư nước ngoài vào tỉnh Bắc Giang vẫn đang tăng nhanh... Gần 300 dự của nhà đầu tư nước ngoài đến từ gần 20 quốc gia, vùng lãnh thổ, sử dụng lực lượng lao động lớn lên đến hàng trăm nghìn người. Trong bối cảnh này, công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong doanh nghiệp FDI vẫn đang được cấp ủy Bắc Giang rút kinh nghiệm nhưng có một thực tiễn không thể phủ nhận.
PV: Ông Thân Văn Khoa, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Bắc Giang
(Không thể không vươn tới khu vực FDI… Phương thức lãnh đạo sẽ khác…).
Không khí trong mỗi buổi lễ kết nạp đảng viên thật trang trọng và linh thiêng. Tất cả đảng viên mới kết nạp hôm nay đều đến từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… Những lời thề sắt son một niềm tin với Đảng vang lên bất tận… Điều khác biệt trong Lễ kết nạp Đảng lần này là sự có mặt của những ông chủ nước ngoài và những lời chúc mừng dành cho công nhân đảng viên của mình.
PV: Ông Lin Sheng Yong, Giám đốc sản xuất Cty TNHH Smart Shirts Việt Nam
(Lời dịch: Lý do tôi có mặt trong ngày hôm nay là để chúc mừng sự trưởng thành của nhân viên chúng tôi. Ở bên Trung Quốc cũng có Đảng cộng sản như ở Việt Nam và tôi rất khâm phục những người đứng trong tổ chức Đảng cộng sản. Chúng tôi mongmuốn sẽ có thêm nhiều người công nhân là đảng viên.)
PV: Đảng viên Phan Thị Tuyết Chinh, Cty TNHH Smart Shirts Việt Nam
(Tôi thấy có sự đồng cảm, đồng hành… Tôi sẽ phải tiếp tục cố gắng…)
V.I. Lenin, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản đã bắt đầu sự nghiệp cách mạng của mình bằng cách ra tờ báo "Tia lửa”…"Từ tia lửa sẽ thổi bùng lên ngọn lửa”. Thực tiễn đã chứng minh, khi tri thức cách mạng, lý luận cách mạng thâm nhập đông đảo quần chúng sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Trong công tác phát triển tổ chức Đảng, đảng viên ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước tại BG, đốm lửa ngày nào giờ đã bùng cháy thành ngọn lửa… Ngọn lửa của sự nhiệt huyết, của lý tưởng cách mạng, và của niềm tin sắt son với Đảng. Sức mạnh, giá trị của Ngọn cờ "Búa liềm” đang được giai cấp công nhân giương cao… và có sự lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài tại Bắc Giang.
KÍ ỨC SÔNG CẦU
Giải B, năm 2017
Nhóm tác giả: Thế Phương, Hoài Nam
Thể loại: Phim tài liệu
Tập 1: BỜ BẮC SÔNG CẦU – MỘT VÙNG TÚ KHÍ
… S |
ông Cầu là con sông lớn chảy qua địa phận 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang và Bắc Ninh. Nó là đường ranh giới giữa 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Phần bờ nam là những vùng đất thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bờ bắc là vùng đất 3 huyện Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Dũng của Bắc Giang. Trên hành trình của mình ở đất Bắc Giang, con sông đã in đậm bề dày trầm tích văn hóa, lịch sử, làm nên ký ức về một dòng sông có vẻ đẹp vừa thơ mộng, trầm mặc mà cũng rất đỗi hào hùng…
… Sách Địa Chí Hà Bắc chép rằng: "Sông Cầu phát nguồn từ miền núi chợ Đồn (tỉnh Thái Nguyên) nhập vào sông Thương, sông Lục Nam ở phía trên phả lại thành sông Thái Bình. Sông dài 289 km, trong đó 110 km chảy qua địa phận tỉnh Bắc Giang. Sông có 69 nhánh (chỉ tính nhánh có chiều dài từ 10 km trở lên). Trong đó, 2 nhánh lớn là sông Công và sông Cà Lồ. Sông Cà Lồ thuộc địa phận Phúc Yên và Bắc Ninh. Còn sông Công thuộc địa phận Thái Nguyên…
PV: Trần Văn Lạng, nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
(Lịch sử các tên gọi của sông Cầu)
Cái tên thân quen hơn cả vẫn là Sông Cầu. Nó đã đi vào thơ ca trong dân gian như: " Sông Cầu nước chảy lơ thơ / Đôi ta thương nhớ bao giờ cho nguôi”. Và con sông ấy từ thuở xa xưa cho tới tận bây giờ vẫn trường tồn, là huyết mạch của đất Bắc và chung đúc khí thiêng cho núi sông nơi này…
Vùng đất bờ bắc sông Cầu là nơi sơn dừng thủy tụ. Có những ngọn núi như núi Đót, núi Y Sơn, núi Bổ Đà, núi Voi, núi Mỏ Thổ… nhưng tiêu biểu nhất là dãy Nham Biền. Các núi này đối diện với các núi lớn ở bờ Nam như núi Hòa Long, núi Thị Cầu, núi Vũ Ninh, núi Châu Cầu Thất Giản,… tạo nên dòng chảy sông Cầu mà hội tụ cả về Lục Đầu Giang. Với hình sông thế núi ấy đã tạo nên bờ Bắc sông Cầu là vùng "địa linh nhân kiệt”. Trong cuốn sách địa lý của cụ Tả Ao Nguyễn Đức Huyên thời Lê có vẽ mô tả các vùng đất phát trạng nguyên, tiến sỹ của 3 huyện Hiệp Hòa, Yên Dũng, đặc biệt là Việt Yên…
PV: Giáo sư Sử học Lê Văn Lan
Bên bờ sông Cầu ở vùng phía Tây Hiệp Hòa có khối núi Y Sơn (hay Thù sơn) ở xã Hòa Sơn đồ sộ nổi lên giữa vùng đất bằng trung du giáp ranh ba tỉnh Bắc Giang – Bắc Ninh – Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc ngày nay). Núi này tuy không cao nhưng cũng cao nhất nhất khu vực này. Trong núi có đền và chùa Y Sơn nổi tiếng từ xưa.
Hàng năm, vào dịp xuân về, lễ hội Y Sơn lại được tổ chức long trọng. Dân chúng trẩy hội làm nô nức một vùng bên sông…
Lễ hội đã lột tả một truyền tích về vị thánh cai quản vùng này. Truyền tích kể lại rằng: Từ thuở Hùng Vương dựng nước, nơi này có viên quan tuổi cao mà vẫn chưa có con. Một hôm, ông đến ngôi chùa nhỏ ở núi này để cầu tự. Trời đất cảm thông mà ứng nguyện cho sinh một người con trai, ông đặt tên con là Hùng Linh Công. Lớn lên, Hùng Linh Công tài giỏi hơn người, giúp dân làm ăn, trừ thú dữ, giúp triều đình đánh giặc mà có công lao. Sau này, ngài hóa ở núi Y Sơn, dân nhớ công lao ấy mà lập đền thờ ở núi…
Y Sơn Linh Tích, nơi đây vẫn còn di vật xưa để lại, có voi đá, hổ đá theo nhà thánh đi trận, lại có các đồ thờ ngà ngọc, thần tích, sắc phong càng làm cho ngôi đền uy linh rực rỡ. Đó chính là cội nguồn xa xưa ở vùng đất này còn vọng truyền mãi tới mai sau, tiếp thêm sinh khí cho nơi này thêm chói lọi.
(Trích các cụ trong làng đọc bài thơ cổ treo ở đền).
PV: Cụ cao tuổi trong làng
… Ở đoạn cuối hành trình của sông Cầu, dãy núi Nham Biền chạy dài giữa 2 con sông: sông Cầu và sông Thương. Dãy Nhan Biền có 2 dải núi lớn song song nối nhau xuôi về cửa sông Lục Đầu. Một dải mang tên núi Neo, một dải là núi Bài. Trong núi Bài có địa danh Vân Cốc – nghĩa là hang mây, quanh năm mây cuốn…
Thần tích và tư liệu dân gian ở Vân Cốc (xã Vân Trung, Việt Yên) cho biết đình Bài Cả thờ đức thánh Cao Sơn, đình Bài Xanh thờ đức thánh Quý Minh là 2 anh em sinh ra và trưởng thành ở thời Hùng Vương thứ 18, là bộ tướng của đức thánh Tản Viên, giúp Hùng Vương chống lại đại quân của Thục Vương. Các vị thánh đó hóa, dân làng cho lập đền đình thờ cúng, bởi vậy ở nơi sườn núi triền sông đó là một vùng tâm linh rộng lớn...
Phỏng vấn: Cụ cao niên
… Truyền tích, thần tích về thời Hùng Vương có ở hầu khắp các làng xã vùng bờ bắc sông Cầu. Tại đây, các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật và phát hiện nhiều hiện vật thời đại Đông Sơn, trong đó có trống đồng Đông Sơn. Điều đó cho thấy tình hình kinh tế, chính trị xã hội của cư dân nơi đây từ xa xưa đã ở trình độ cao. Trống đồng là biểu tượng của quyền lực bộ tộc, bộ lạc. Là biểu tượng của âm nhạc dân gian, vừa có tính chất tín ngưỡng, vừa có tính chất văn hóa dân tộc…
Thế mới biết, chỉ một dải đất ngắn ven sông mà ẩn chứa biết bao chứng tích của lịch sử sống động, của một vùng văn hóa tâm linh đặc sắc ẩn sâu trong ký ức dải đất bờ bắc sông Cầu, được biểu lộ qua những di tích, hiện vật và nếp sống của những con người nơi đây…
Tập 2: RỰC SÁNG BẢN HÙNG CA GIỮ NƯỚC
… Các làng ở bờ Bắc sông Cầu hiện nay còn có nhiều địa danh thời Đông Sơn lưu lại như Kẻ Cáu, Kẻ e, Đồng Chạ, Ao Chạ, hay những ngôi mộ cổ nhà Hán còn sót lại cho thấy nơi đây ẩn chứa một thời sục sôi trong lịch sử…
... Vào năm 40 của thế kỷ I SCN, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Hán để "báo thù nhà đền nợ nước”. Ở bờ Bắc sông Cầu có nữ tướng Diện Nương cũng dấy binh ứng nghĩa, hưởng ứng Hai Bà Trưng.….. Từ thuở bình minh của lịch sử, nơi bờ bắc sông Cầu đã thẫm máu binh đao và ghi vào trang sử hào hùng của dân tộc những bản hùng ca chói lọi…
Phỏng vấn: Ông Trần Văn Lạng, nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
(Vị trí chiến lược của sông Cầu?)
… Sông Cầu có đặc tính hiền hòa, dòng sông yên ả, thanh bình, nước chảy lơ thơ. Thế mà trong lịch sử đã bao phen dậy sóng. Hòa trong tiếng gió, tiếng sóng vẫn văng vẳng đâu đây tiếng bài thơ thần Nam quốc sơn hà từ ngàn xưa vọng lại: Sông núi nước Nam, vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm / Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Bài thơ đuổi giặc được lưu truyền do Lý Thường Kiệt cho đọc dọc đôi bờ sông Cầu, khiến quân Tống hồn bay phách lạc mà rút quân về nước, không dám vượt sông Như Nguyệt tiến xuống Thăng Long. Bởi vậy mới có câu đối rằng: Thiên thượng cao ngâm thoái lỗ hữu thi tôn tín sử / Linh thanh do tại duyên giang đáo sứ ngật sùng từ. Nghĩa là: Trời cao vang tiếng thơ ngâm đuổi giặc còn lưu trong tín sử / Danh thiêng còn đó, triền sông đâu đâu cũng có đền uy linh.
Phỏng vấn: Sự ra đời của bài thơ và chiến tuyến Như Nguyệt?
Những địa danh Ngã ba Xà, Gò Xác là nơi ghi dấu thất bại nặng nề của quân Tống… Ở Gò Xác, nơi quân Tống chết chất cao thành gò, giờ đây một ngôi chùa đã được dựng lên có tên là chùa Xác hay An Lạc Tự… Không gian thanh tịnh của ngôi chùa đã làm dịu đi những hờn căm và ai oán của một cuộc chiến, nhưng lại nhẹ nhàng khơi gợi cho hậu thế ký ức về tinh thần quật cường chống ngoại xâm của cha ông ta…
Những khúc sông một thời nhuộm đỏ mầu máu nay được thay bằng màu xanh, màu của thanh bình… Bụi thời gian ngàn năm vẫn không phủ kín ký ức về những sự kiện lịch sử trên dòng sông này. Ở khúc sông thuộc xã Mai Trung huyện Hiệp Hòa, người dân đã từng nhiều lần trục vớt thuyền chiến năm xưa, trong đó có những cổ vật bằng đá, đồng và một số vũ khí. Gần đó, 1 chiếc trống đồng hàng nghìn năm tuổi được phát lộ. Qua nghiên cứu cho thấy đây là trống trận, có thể được dùng trợ oai tăng sĩ khí trong trận Như Nguyệt hào hùng.
PV: Ông Mười, người vớt được trống đồng
… Trở về Hiệp Hòa, mảnh đất An toàn khu hôm nay, một sức sống mới ngập tràn… Những dư âm về thời oanh liệt vẫn sống động giữa đời thường… Những soi trám ven sông Cầu vẫn kiên trì bám trụ với thời gian như muốn kẻ với hiện tại về một thời sục sôi cách mạng. Quả trám đen nuôi lớn nghĩa tình làng Đỏ như một biểu tượng thiêng liêng cho tinh thần giác ngộ cách mạng, che chở cách mạng và vùng lên đấu tranh giành độc lập tự do của nhân dân nơi đây… Do đó, vùng đất Hiệp Hòa đã trở thanh ATK 2, tạo thế đứng chân cho cách mạng và chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945.
PV: Ông Trần Văn Lạng, nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
(Sông Cầu có vai trò gì trong ATK2?)
Các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng là Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Hoàng Văn Thái, Hoàng Văn Thụ, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Trọng Tỉnh đã về hoạt động ở Hiệp Hòa. Cùng với vị trí đắc địa, sông Cầu đã bao lần che chở, bảo vệ cán bộ trước họng súng lùng sục của kẻ thù. Câu chuyện chở đồng chí Trường Chinh qua sông thoát hiểm an toàn vẫn được người dân nơi đây kể lại…
Tình cảm đó đã nuôi lớn nghĩa tình cách mạng. Để rồi, nhân dân làng Xuân Biểu xã Xuân Cẩm tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền đầu tiên của cả nước (12/3/1945). Từ đó tiến hành khởi nghĩa từng phần ở các xã trong huyện, tiến lên giành chính quyền cấp huyện, tạo ra phong trào giành chính quyền cách mạng trong cả tỉnh Bắc Giang, góp phần vào thành công cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945… Cũng với nghĩa tình ấy, nhân dân nơi bờ Bắc sông Cầu đã theo Đảng, tiếp tục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, cùng cả nước đi lên xây dựng XHCN…
Hàng ngàn năm qua đi, dòng sông Cầu vẫn êm ả trôi như dòng đời không ngừng chảy. Trong dòng chảy của tự nhiên, của thời cuộc đó, những dấu ấn lịch sử nơi bờ Bắc sông Cầu vẫn ở lại như thách đố thời gian để ghi dấu, để khẳng định vùng đất này, những con người nơi đây mãi thủy chung son sắt với truyền thống, với lịch sử của dân tộc. Đó là nguồn sức mạnh từ ký ức để hướng đến một tương lai tốt đẹp…
Tập 3: HUYỀN THOẠI CỦA ĐÁ
... Sông Cầu nhập giang vào Bắc Giang ở xã Đồng Tân, huyện Hiệp Hòa. Tính từ đây cho hết huyện Yên Dũng, sông Cầu chủ yếu chảy qua những cánh đồng và một số núi đất thấp. Thế nhưng, có một điều đặc biệt, dọc sông Cầu lại có nhiều câu chuyện huyền thoại về đá, nhiều nơi thờ đá và nhiều di tích bằng đá…
... Chùa Dâu hay chùa Bụt Mọc còn có tên chữ là Linh Quang tự thuộc xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng. Đây là ngôi chùa cổ ít thấy ở Bắc Giang gắn với tín ngưỡng thờ đá. Câu chuyện dân gian sự tích chùa Bụt Mọc nói lên ý nghĩa của tục thờ này... Hiện trên chính điện của ngôi chùa còn thờ một hòn đá gọi là Linh Thạch. Hòn đá hình trụ được đặt trang trọng bên cạnh tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhỡn. Qua đó cho thấy dấu hiệu của tín ngưỡng thờ đá ở Nội Hoàng là Linh Thạch gắn liền với thời kỳ ban đầu của quá trình du nhập đạo Phật vào Việt Nam. Ở đó tín ngưỡng dân gian và đạo Phật đã hòa vào với nhau làm nên nét riêng cho một vùng đất…
PV: Sư thầy Thích Đàm Lương
… Chùa Bổ Đà, một ngôi chùa đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ, cạnh tam bảo còn có tượng một vị thần mà nhân dân nơi đây tôn thờ - Thạch Linh Thần Tướng, một vị thần có truyền thuyết tương đồng với Thánh Gióng. Lịch sử của mỗi dân tộc bao giờ cũng bắt đầu bằng những huyền thoại. Trên bờ bắc sông Cầu cũng có rất nhiều huyền thoại, trong đó có huyền thoại về Thạch Linh thần tướng (thần tướng sinh ra từ đá thiêng).
(nhận định của GS sử học Lê Văn Lan tại tượng Thạch Linh…)
Nằm trong quần thể di tích Bổ Đà còn có Ao Miếu, đây là nơi thờ Thạch Linh Thần Tướng. Trong khuôn viên Ao Miếu có Ao Thánh, nơi đó là miếu thờ Thạch Linh thần tướng trên phiến đá phía sau tòa đại đền...
… Ở đền Y Sơn xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa cũng thờ một phiến đá được tương truyền là giúp cho quân của Hùng Linh Công bắc cầu vượt qua chi lưu của sông Cầu để hành quân đánh giặc. Trên phiến đá còn in dấu vai được cho là dấu tích khi vác đề bắc cầu… Phải chăng vì thế, nơi bờ Bắc sông Cầu, những phiến đá, những câu chuyện về đá đã trở thành huyền thoại, để đến sau này một loạt những công trình bằng đá xuất hiện, làm nên một vùng di tích đặc sắc mà ít nơi có được…
PV: Yếu tố tín ngưỡng nào liên quan đến tục thờ đá du nhập vào đây?
... Bên cạnh những tấm bia đá ghi danh các tiến sỹ khoa bảng Bắc Giang, còn có các vị quan chức, quan võ thành danh mà bây giờ di sản của họ lưu lại ở các lăng đá dọc bờ bắc sông Cầu. Đó là một hệ thống kiến trúc lăng đá mang phong cách nghệ thuật điêu khắc đá thời Lê tiêu biểu ở Bắc Giang...
Lăng Họ Ngọ ở xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa. Khu lăng này được xây dựng vào cuối thế kỷ 17, còn tương đối đầy đủ và phản ánh nhiều đặc sắc về nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc đá thời Lê - Mạc. Đây là khu lăng khá lớn, xây dựng bằng chất liệu đá ong, đá muối, đá xanh.... Nói là Lăng họ Ngọ nhưng thực chất đây là lăng mộ của Phương quận công Ngọ Công Quế. Bia 4 mặt ở khu di tích ghi rõ điều này...
PV: Ông Ngọ Văn Tuyến
Lăng mộ đá trên khắp đất nước Việt Nam thì nhiều nhưng tập trung với mật độ đông và kiến trúc đặc biệt tại một khu vực thì ở huyện Hiệp Hòa là hàng đầu.Trong gần 30 lăng đá cổ, mỗi lăng lại có lối kiến trúc đặc trưng… Lăng Dinh Hương ở xã Đức Thắng là lăng đá nổi tiếng được các nhà nghiên cứu nghệ thuật biết đến từ lâu. Lăng là nơi an nghỉ và thờ tự của vị quận công La Quý Công. Khu lăng này nằm ở địa thế phong thủy đẹp. Trong lăng có 3 khu: khu lăng, khu tẩm và khu nhà bia. Ở khu Lăng có trục thần đạo thẳng từ cổng trước vào. 2 bên thần đạo sắp bày voi đá, ngựa đá, nghê đá, vũ sỹ đá, hương án đá, mô phỏng chốn quan trường phong kiến...
Cũng trên đất Hiệp Hòa còn có lăng Họ Ngô hay còn gọi là Lăng Bầu vì nó nằm ở làng Bầu xã Xuân Cẩm, cũng là khu lăng có quy mô lớn. Tượng pháp nghiêm chỉnh bề thế... Các vũ sỹ đá ở lăng này được tạo khắc có kích thước lớn hơn hẳn các lăng khác... Y giáp tề chỉnh, nai nịt gọn gàng, tay cầm vũ khí oai phong… Các di vật này cho ta biết về nhiều mặt của thời đó như: trang phục, vũ khí… Lăng này chỉ có phôi bia, chữ chưa tạc. Bia hình chuông vẫn còn nằm bên lăng mộ. Có một điều lạ là những thông số kích thước ở lăng cho thấy nhiều bí ẩn…
PV: Tại sao Hiệp Hòa lại có nhiều lăng quy mô lớn?
Ngoài ra, dọc sông Cầu còn nhiều lăng đá cổ khác, riêng Hiệp Hòa có 26 lăng, Việt Yên 11 lăng, Tân Yên 5 lăng… Trở lại thế kỷ XVII - XVIII, Bắc Giang thuộc xứ Kinh Bắc, trung tâm văn hoá của vùng Châu thổ sông Hồng, nơi nổi tiếng có nhiều người đỗ đạt, làm quan to. Đây cũng là thời kỳ mà nghệ thuật xây dựng lăng mộ và tạo tác đá ở Việt Nam đạt đến đỉnh cao. Lăng đá ở Bắc Giang là di tích kiến trúc mộ táng kết hợp nơi thờ tự của các quan lại cao cấp thời Lê-Trịnh, với số lượng nhiều nhất, quy mô lớn nhất, vật liệu bền vững nhất và loại hình phong phú nhất. Không chỉ vậy, những lăng mộ này còn chỉ ra một con đường thủy trên sông Cầu thông thương giữa các tỉnh.
PV: Ông Trần Văn Lạng, nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
... Những câu chuyện về đá, những di tích bằng đá hàng trăm năm tuổi vẫn hiển hiện giữa đất trời đã soi rọi tới hiện tại đời sống tâm linh phong phú của người xưa… Mỗi khúc sông là mỗi vùng văn hóa, mỗi thời đại lại có những đặc tính riêng nhưng đều biểu lộ ở hiện tại những giá trị văn hóa vững bền của một ký ức sống động bên bờ bắc sông Cầu./.
Tập 4: SÔNG CẦU – MIỀN DI SẢN
… Từ thế kỷ 16 trở đi, miền đất Bắc sông Cầu đã trở thành một vùng văn hóa sôi nổi, để lại rất nhiều dấu ấn độc đáo đến ngày nay…
Vùng quê Lỗ Hạnh, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa. Nơi đây có ngôi đình cổ xứ Bắc và được mệnh danh là đệ nhất Kinh Bắc. Đình được dựng vào năm Bính Tý, niên hiệu Sùng Khang thứ 11 (1576) có niên đại vào diện sớm nhất trên toàn quốc (chỉ sau đình Tây Đằng - Hà Nội)... Các bức chạm ở đình cho thấy tất cả các mảng điêu khắc đều mang phong cách nghệ thuật thời Mạc. Toàn bộ kết cấu kiến trúc của đình này cũng là nguyên mẫu thời Mạc. Ít tìm đâu ra một nguyên mẫu như thế...
Gắn với ngôi đình là không gian của làn điệu ca trù Đông Lỗ, một trong những cái nôi của ca trù xứ Bắc. Đình Lỗ Hạnh từ lâu đã là nơi sân khấu hóa nghệ thuật hát cửa đình độc đáo. Trên cốn của đình có tạc một cô gái có thân hình mảnh mai đang chơi đàn đáy, loại đàn chỉ duy nhất dành cho nghệ thuật ca trù. Nếu không có các bảo vật ấy làm bằng chứng thìkhó có thể tìm lại dấu ấn một thuở vàng son của bản xã, bản huyện hàng trăm năm trước từng là cái nôi ca trù của tỉnh Bắc Giang. Tư liệu vô giá này đã được lưu trong hồ sơ đệ trình UNESCO, là một trong ba hình ảnh minh chứng cho sự ra đời và phát triển sớm của ca trù ở nước ta. Nhờ vậy, ca trù Đông Lỗ đã tìm lại được hào quang thuở vàng son của mình...
PV: nghệ nhân,
... Làng Thổ Hà, xã Vân Hà, huyện Việt Yên là một làng Việt cổ nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa, Bắc Giang ngày nay. Làng nổi tiếng bởi là một làng làm gốm thủ công truyền thống. Tục truyền làng Thổ Hà xưa ở bên Núi Gốm (kề bên sông Lục Nam) sau chuyển về bên làng gốm Phù Lãng ở Quế Võ, Bắc Ninh, cuối thế kỷ 16 mới về nơi này... Trong làng có ngôi đình nổi tiếng là đình Thổ Hà, nằm ở trung tâm xã Vân Hà, nơi phong quang đẹp đẽ... Đình được xây dựng vào năm 1654, ở ngay bên bờ sông, đúng với khôn gian trong câu ca dao "Cây đa, bến nước, sân đình; Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Đình Thổ Hà là ngôi đình có quy mô, kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật vào bậc nhất của Bắc Giang hiện nay, khó có ngôi đình nào có thể so sánh được.
Thời phong kiến, làng Thổ Hà đã được phong tặng danh hiệu "Mỹ Tục Khả Phong” (tục tốt đẹp rất đáng phong tặng)... Ai đã từng xem rước thánh ở Thổ Hà mới thấy những nét đẹp đó. Sự trang trọng của lễ hội này, với âm thanh, màu sắc, khí thế rộn ràng, long trọng... Đúng là làng Mỹ tục khả phong. Hội Thổ Hà với ý nghĩa là hội mừng công nhà Thánh thắng trận nên có tiết mục tế bò. Bò tế phải là bò đực sắc vàng, không pha tạp. Tế xong chia cho các giáp khao quân. Một dải đất nhỏ ven sông nhưng chứa đựng rất nhiều giá trị văn hóa cổ đặc trưng của Bắc Bộ.
PV: ông Nguyễn Đình Bưu, nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
(Nhận xét về cội nguồn những giá trị văn hóa cổ Thổ Hà)
... Trong một lần về Trang Tiên Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên điền dã, nhà sử học Lê Văn Lan đã quan sát thấy nơi đây có một thế đất hình chiếc ngai, ở trong chiếc ngai đó có một ngôi chùa cổ, chùa Bổ Đà... Mới đây, chùa được Nhà nước xếp hạng là di tích Quốc gia đặc biệt. Chùa Bổ Đà hội tụ đầy đủ các giá trị nổi bật về lịch sử, tôn giáo, kiến trúc và văn hóa. Đây là trung tâm Phật giáo lớn của miền Bắc và được xem là chốn tổ của Thiền phái Lâm Tế. Vị trí chùa tọa lạc ở trang Tiên Lát thuộc phòng tuyến sông Như Nguyệt gắn với lịch sử hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Ngôi chùa trải qua nhiều thế kỷ, nhiều lần trùng tu, song được bảo tồn khá nguyên vẹn.Kiến trúc chùa khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc. Đó là lối kiến trúc "nội thông ngoại bế” tạo vẻ u tịch, thanh bình, linh thiêng. Hệ thống tường bao trình bằng đất đặc trưng hiếm nơi nào có được.
Đặc biệt, chùa còn lưu giữ kho mộc bản kinh Phật với khoảng 2.000 bản khắc ngược bằng chữ Hán - Nôm và chữ Phạn trên gỗ thị với kỹ, mỹ thuật tinh xảo. Hiện các bộ mộc bản khá nguyên vẹn và đã được xác lập kỷ lục là bộ mộc bản của Thiền phái Lâm Tế khắc trên gỗ thị cổ nhất Việt Nam. Ngoài ra, chùa có vườn tháp cổ, nơi tàng lưu xá lị, tro cốt các vị tăng ni, với hơn 110 ngôi tháp. Vườn tháp được xác lập kỷ lục lớn nhất Việt Nam... Đúng là: Bốn bền phong cảnh lạ thay / Bồng lai kia cũng thế này mà thôi.
Trích Lê Văn Lan (Nói ở hội trường huyện Việt Yên)
Bờ Bắc sông Cầu đã có dân ca quan họ từ lâu đời. Bà chúa Lẫm được thờ ở thôn Trung Đồng, xã Vân trung, huyện Việt Yên. Tục truyền rằng trong thời Trần ở vùng Núi Bài, xã Vân Trung thuở ấy vẫn còn úng trũng ngập nước. Bởi thế mọt bà hoàng vợ vua Trần có danh hiệu là Bản Đức đã về vùng này dạy dân canh tác, khai khẩn đồng chua nước ngập. Tới khi bà mất, dân lập đền thờ ở thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên. Nôm na dân gọi bà là Bà Chúa Lẫm. Bà Chúa Lẫm được thờ ở 3 nơi: Trung Đồng (Vân Trung), Thượng Đồng (Hòa Long, Bắc Ninh) và Hạ Đồng (Hoài Bão, Bắc Ninh). Người đời còn cho bà là Bà Chúa Quan Họ bởi có công lao truyền dạy quan họ ở đời.
Có lẽ cũng chính vì thế mà làng Trung Đồng cũng là một trong những làng quan họ cổ trên đất Bắc Giang. Mới đây, chỉ riêng Trung Đồng đã khai thác được 130 bài quan họ cổ chưa công bố bao giờ, những bài ca ấy các cụ cao niên ở đây vẫn còn thể hiện được. Cùng với làng Trung Đồng, dọc bờ sông này còn có các làng Thổ Hà, Nội Ninh, Sen Hồ, Mặt Ninh, Giá Sơn, Hữu Nghi, Trúc Tay, Lát Hạ, Thần Chúc nằm trong 18 làng có quan họ, trong đó có 5 làng quan họ cổ được vinh danh trong 49 làng quan họ gốc.
PV: ông Nguyễn Đình Bưu, nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
(Giá trị các làng quan họ cổ hiện nay trong việc bảo tồn, phát huy quan họ)
Sông Cầu chảy qua Bắc Giang chỉ một đoạn ngắn nhưng đã in đậm bên bờ Bắc cả một miền văn hiến. Mảnh đất này địa linh sinh nhân kiệt nên để lại cho đời một kho báu quý giá về tài, đức của các bậc hiền nhân. Nơi này là một vùng đất cổ nên đã ẩn chứa biết bao huyền tích, biết bao di tích lịch sử, di sản quý báu... Tất cả làm nên đặc tính cô đặc văn hóa của một vùng đất, khiến những giá trị văn hóa bản thể ngàn năm tới nay vẫn còn tỏa sáng. Ký ức về bờ Bắc của dòng sông này là ký ức về những giá trị bản thể đó, những giá trị không hề lay chuyển qua chiều dài lịch sử. Đó là cái cái hay, cái đẹp cho vùng đất này một hành trang vững chắc bước tiếp những chặng đường lịch sử.
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG: CÓ ĐẤT "SẠCH” ĐƯỢC LÒNG DÂN
Giải B, năm 2017
Nhóm tác giả: Trần Đức, Văn Thương
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: NHIỀU NƠI KÊU KHÓ VÀ PHỨC TẠP
G |
iải phóng mặt bằng là yếu tố quan trọng hàng đầu trong thu hút đầu tư, phát triển hạ tầng, đô thị, công nghiệp, dịch vụ... nhằm thúc đẩy KT-XH. Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận song công tác này còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc, thậm chí phát sinh điểm "nóng" khiếu kiện đông người, kéo dài. Nhiều nơi kêu khó, vất vả và phức tạp.
Nhìn lại những điểm "nóng"
Đường tỉnh 293 - "con đường tâm linh" từ TP Bắc Giang đến Sơn Động khoảng 100 km. Vốn đầu tư cải tạo, nâng cấp đường gần 2,3 nghìn tỷ đồng với kỳ vọng đánh thức tiềm năng kinh tế các huyện: Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động và khai thác điểm nhấn du lịch của tỉnh là Khu du lịch tâm linh, sinh thái Tây Yên Tử. Đến nay, đường tỉnh 293 giai đoạn 1 cơ bản hoàn thành nhưng nhìn lại công tác GPMB thấy lắm gian nan.
Huyện Sơn Động đã phải tổ chức nhiều cuộc bảo vệ thi công và cưỡng chế mặt bằng ở đường tỉnh 293 đoạn qua xã Tuấn Mậu. Hai điểm cưỡng chế ở hộ bà Đặng Thị Thúy và Đặng Thị Chung thôn Mậu. Hai hộ này yêu cầu bồi thường diện tích đất sát mép đường trong khi Hội đồng GPMB không nhất trí đối với diện tích thuộc 5 m hành lang giao thông theo quy định. Bà Thúy, bà Chung đòi quyền lợi không phải không có căn cứ khi đưa ra Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) bao gồm được cấp cả phần hành lang giao thông. Cơ quan chức năng cho rằng do người cấp sổ đỏ làm sai, nếu bồi thường diện tích 5 m hành lang thì sai lại chồng lên sai. Sau nhiều lần vận động, thuyết phục hai hộ trên giao mặt bằng nhưng không có kết quả, chính quyền đã tiến hành cưỡng chế.
Cũng trên đường tỉnh 293, sau khi đưa vào sử dụng xuất hiện điểm sạt lở lớn. Để xử lý sự cố cần phải GPMB hơn 5,1 nghìn m2 đất lâm nghiệp của gia đình ông Nguyễn Quang Tiến, thôn Bãi Đá, xã Lục Sơn (Lục Nam). Trên diện tích này có 37 cây lim hơn 10 năm tuổi. Ông Tiến cho rằng cây đang sinh trưởng tốt, hứa hẹn đem lại thu nhập hàng trăm triệu đồng và đề nghị giá bồi thường từ 12 - 13 triệu đồng/cây. Vì loại tài sản này chưa có áp giá trong bảng đơn giá được UBND tỉnh phê duyệt nên UBND huyện Lục Nam xây dựng phương án bồi thường từ 8 - 10 triệu đồng/cây để trình lên tỉnh. Hội đồng định giá tỉnh phê duyệt 3 triệu đồng/m3 gỗ. Như vậy, mỗi cây lim chỉ được bồi thường gần 3 triệu đồng nên ông Tiến không nhất trí. Chỉ đến khi UBND huyện Lục Nam hoàn thiện thủ tục, chuẩn bị tổ chức cưỡng chế, ông Tiến mới chấp nhận bàn giao mặt bằng.
Liên quan đến GPMB còn tồn tại nhiều điểm "nóng” khác. Dự án cải tạo, nâng cấp đường tỉnh 293 đoạn qua các xã: Nghĩa Phương, Vô Tranh, Trường Sơn, Lục Sơn (Lục Nam) đã đưa vào sử dụng từ hơn 2 năm nay nhưng hàng chục hộ vẫn khởi kiện UBND huyện Lục Nam vì không bồi thường một phần đất hành lang giao thông có trong sổ đỏ. Cũng ở tuyến đường trên, huyện Sơn Động đang giải tỏa mặt bằng phục vụ thi công giai đoạn 2 từ thị trấn Thanh Sơn đến xã Long Sơn nhưng hiện còn hơn 20 hộ dân chưa phối hợp kiểm đếm. Dự án xây dựng khu đô thị mới phía Tây thị trấn Vôi (Lạng Giang) có 35 hộ dân chưa phối hợp để GPMB. Huyện Lạng Giang phải cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc đối với nhiều hộ.
Tại dự án xây dựng đường dẫn lên cầu Đông Xuyên (đường tỉnh 295) đưa vào sử dụng từ tháng 7-2014 nhưng đoạn qua thôn Nội Thổ, xã Bắc Lý (Hiệp Hòa) khi ấy vẫn còn một nửa mặt đường dài hơn 30 m, diện tích gần 300 m2 chưa được thi công vì vướng GPMB liên quan đến hộ bà Phùng Thị Hương và hộ ông Phùng Văn Tú. Đoạn đường trũng xuống, tạo thành "ổ voi”, sau gần hai năm, những vướng mắc ở đây mới được giải quyết.
Qua làm việc với lãnh đạo các huyện: Sơn Động, Lục Nam, Lạng Giang, Yên Dũng và Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh; Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh... đều có chung nhận xét công tác GPMB khó khăn, vất vả và phức tạp.
Khó khăn, vướng mắc thường gặp
Vướng mắc nhiều nhất là về giá bồi thường GPMB. Đa số các hộ cho rằng giá và hỗ trợ bồi thường còn thấp, chưa bảo đảm chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định đời sống sau GPMB. Ở những vị trí giáp ranh giữa các huyện với TP, giữa Bắc Giang với tỉnh khác, người dân ở các huyện thường đòi hỏi giá đền bù ngang bằng ở TP vì có khi diện tích đất cùng một cánh đồng nhưng có sự chênh lệch khá lớn. Vướng mắc về đất công ích (đất giao cho các hộ sử dụng tạm thời) hay phát sinh khiếu kiện. Đất công ích được bồi thường cho UBND xã. Nhưng ở nhiều nơi việc chia gộp đất công ích trong một thửa ruộng nên không xác định được chỗ nào là đất giao tạm thời, chỗ nào là đất giao lâu dài để tách ra mà áp giá.
Sau thời gian chia ruộng đất nông nghiệp lâu dài và việc giao đất, giao rừng cho nông dân, nhiều hộ mua đi, bán lại nhưng không làm thủ tục chuyển nhượng. Khi kiểm đếm để bồi thường GPMB thì chủ sở hữu hiện tại không có giấy tờ chứng minh nên không tiến hành bồi thường được. Khi bán thì rẻ, nay giá bồi thường cao nên xảy ra tranh chấp giữa người mua và người bán.
Tương tự như xác định vị trí đất công ích, ở một số xã miền núi khi cấp sổ đỏ cho một thửa đất không xác định đâu là đất ở, đâu là đất vườn. Diện tích cần GPMB chỉ là một phần thửa đất nên không biết áp giá như thế nào. Tài sản trên đất rất nhiều loại, trong đó có loại chưa có trong bảng đơn giá. Có loại tài sản đơn giá thấp hơn so với thực tế. Ví dụ nếp nhà gỗ hiện nay chưa có đơn giá bồi thường nên mỗi huyện vận dụng một kiểu, chỗ thì quá cao, nơi lại quá thấp nên nảy sinh so bì, khiếu kiện.
Việc xác định thời gian với những công trình lấn chiếm hành lang giao thông khó. Bởi vì khi công trình vi phạm, cơ quan chức năng không tiến hành lập biên bản ngay. Lúc kiểm đếm tài sản để GPMB thì việc kê khai, xác nhận do chính quyền cơ sở làm. Có trường hợp hai hộ sát nhau, cùng xây dựng công trình vi phạm nhưng hộ này được bồi thường, hộ kia không được dẫn đến khiếu kiện.
Khi xây dựng khu đô thị cũng phát sinh vướng mắc giữa người dân với doanh nghiệp. Người dân so sánh giữa giá bồi thường và giá bán đất ở chênh lệch lớn nên yêu cầu được thỏa thuận giá bồi thường với doanh nghiệp thay vì chính quyền địa phương áp giá. Đồng thời, đề nghị được ưu tiên mua lô đất trong khu đô thị với giá ưu đãi. Vướng mắc về di chuyển mồ mả, nhất là mồ mả chung của dòng họ không xác định được chủ để bồi thường vì dòng họ ấy không ủy quyền được cho ai.
Ngoài ra còn khó khăn về đất tái định cư, việc giải quyết đất dịch vụ cho các hộ trong diện bị thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi nghề nghiệp. Nhiều dự án phải di chuyển hàng nghìn ngôi mộ, điển hình là Khu đô thị phía Nam TP Bắc Giang hiện còn 400 ngôi mộ phải di chuyển nhưng không có nghĩa trang, không có diện tích đất để đặt mộ...
Những khó khăn, vướng mắc trên có một phần từ bất cập về chính sách đất đai, có cái do việc quản lý bị buông lỏng hoặc do nhận thức chưa đầy đủ của cán bộ và người dân liên quan... Vậy những bất cập ấy do đâu, kinh nghiệm giải quyết là gì, cần những giải pháp đồng bộ nào để việc GPMB ngày càng đạt hiệu quả, bảo đảm được mặt bằng, được cả lòng dân?
KỲ II: BẢO ĐẢM HÀI HÒA BA LỢI ÍCH
Để thúc đẩy phát triển KT - XH thì phát triển kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước. Muốn phát triển kết cấu hạ tầng thuận lợi thì cần làm tốt giải phóng mặt bằng (GPMB). Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cần khắc phục những bất cập và thực hiện các giải pháp đồng bộ với phương châm bảo đảm hài hòa ba lợi ích: Người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
Nguyên nhân của những vướng mắc
Giải thích về những vướng mắc, bất cập trong GPMB hiện nay, ông Lê Hồng Sơn, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Giang cho rằng, chính sách về đất đai qua nhiều thời kỳ, có nhiều thay đổi. Luật Đất đai có từ năm 1988 nhưng đột phá nhất là Luật năm 1993, đó là xác định đất có giá. Nhà nước đầu tư xây dựng các công trình công cộng có quyền thu hồi, bồi thường, mức giá bồi thường theo quy định của Nhà nước. Luật năm 2003 có bước tiến mới là với các dự án phát triển KT- XH thu hồi đất sẽ bồi thường theo sát giá thị trường. Có dự án Nhà nước thu hồi đất, có dự án chủ đầu tư thỏa thuận với người dân để thu hồi đất. Quy định này có lợi cho người dân và nhằm hạn chế các dự án đầu tư ngoài khu, cụm công nghiệp nhưng nảy sinh phức tạp là xuất hiện hai loại giá. Đó là giá thu hồi, đối với các dự án Nhà nước thu hồi đất. Giá chuyển nhượng, đối với dự án chủ đầu tư thu hồi đất.
Luật Đất đai năm 2013 quy định bồi thường theo giá phù hợp với thị trường và vẫn tồn tại hai giá. Từ đó dẫn đến vướng mắc là nhiều hộ dân so bì giá đất ở những vị trí giáp ranh giữa các huyện với TP, giữa Bắc Giang với tỉnh khác. Có sự chênh lệch cao, thấp là do việc áp dụng hệ số hỗ trợ của các địa phương khác nhau, chủ đầu tư thỏa thuận với người dân với giá khác nhau. Có trường hợp để đạt được mặt bằng sớm, chủ đầu tư bồi thường bằng cách "phá giá".
Việc chia ruộng đất manh mún, hồ sơ đất thiếu, thậm chí không có; việc quản lý hồ sơ lỏng lẻo gây thất lạc do vậy việc tiến hành các thủ tục bồi thường rất khó khăn, mất nhiều thời gian xử lý đối với đất công ích.
Chính sách hỗ trợ của tỉnh về đất dịch vụ đã được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế nhưng việc giải quyết theo chính sách cũ chưa dứt điểm. Chẳng hạn trong diện phải thu hồi mặt bằng thực hiện dự án xây dựng khu đô thị mới phía Tây thị trấn Vôi (Lạng Giang), bà Nguyễn Thị Thêm, thôn Toàn Mỹ, cho biết, nguyện vọng của gia đình là được mua một lô đất dịch vụ với giá ưu đãi. Căn cứ để bà Thêm đưa ra yêu cầu trên là do cách đây vài năm chính sách này đã thực hiện, tới đây có khoảng 20 hộ được trả đất dịch vụ trong khu đô thị đang xây dựng.
Công tác quản lý nhà nước về hành lang an toàn giao thông còn bất cập và chưa chặt chẽ. Trên một tuyến đường lúc thì cấp sổ đỏ trừ hành lang 5 m, lúc lại trừ 7 m. Chính quyền cơ sở chưa lập biên bản và xử lý nghiêm các vi phạm về hành lang giao thông. Vì thế có sự trớ trêu là người thực hiện nghiêm quy định thì không được bồi thường, còn người chây ỳ, tái phạm lại được bồi thường.
Có tình trạng lực lượng tham gia GPMB chưa lắng nghe đầy đủ những ý kiến phản ánh của nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở, việc công khai, minh bạch trong GPMB chưa thực hiện tốt. Lợi dụng vướng mắc, một số đối tượng vì lợi ích cá nhân đã xúi giục, kích động làm mất đoàn kết nội bộ thôn, xóm. Từ đó gây khó khăn, buộc chủ đầu tư phải "đi đêm”, làm sai quy định cốt sao được việc cho mình, tạo ra tiền lệ xấu trong GPMB.
Một số bài học kinh nghiệm
Thời gian qua, nhiều địa phương đã rút được bài học kinh nghiệm GPMB nhanh, hiệu quả. UBND TP Bắc Giang phân công các đồng chí trong thường trực mỗi người chịu trách nhiệm phụ trách công tác GPMB ít nhất một dự án trọng điểm, trong đó Chủ tịch UBND TP phụ trách dự án có nhiều khó khăn, vướng mắc nhất.
Huyện Yên Dũng có nhiều cách làm hay, có dự án được UBND tỉnh khen thưởng về thành tích GPMB. Ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng chia sẻ: "Ba năm gần đây Yên Dũng thực hiện GPMB với tổng diện tích 350 ha của 70 dự án. Kinh nghiệm của chúng tôi là lực lượng chức năng sâu sát cơ sở, phát huy vai trò người có uy tín, trước hết là đội ngũ bí thư, trưởng thôn, trưởng các đoàn thể, trưởng xóm... Quy hoạch sử dụng đất, chủ trương đầu tư, phê duyệt dự án, phạm vi giải tỏa, đơn giá, chính sách hỗ trợ, phương án bồi thường… của từng vị trí, loại đất đều được công khai để người dân giám sát, đối chiếu, phản biện". Huyện Yên Dũng còn phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư, doanh nghiệp làm tốt việc hỗ trợ bồi thường GPMB, ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương vào làm việc tại doanh nghiệp. Ví dụ Nhà máy Gạch ốp lát Thạch Bàn (Cụm Công nghiệp Nham Sơn - Yên Lư) đã tuyển dụng 90% trong tổng số 600 công nhân là con em ở xã Nham Sơn, Yên Lư.
Khi giải quyết vướng mắc do mua đi, bán lại đất nông, lâm nghiệp nhưng không làm thủ tục chuyển nhượng, theo quy định thì phải bồi thường cho người có tên trong hồ sơ đất nhưng nhiều địa phương áp dụng phương pháp bồi thường theo thực tế, tức là trả tiền cho người mua. Trong trường hợp này, cán bộ đứng ra làm trọng tài, hòa giải bảo đảm hài hòa lợi ích của hai bên.
Ông Trần Xuân Đông, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh cho rằng cái khó nhất trong thực hiện GPMB mà Ban không làm được là xác định lịch sử đất, nếu như chính quyền cơ sở, trưởng thôn, tổ trưởng dân phố không vào cuộc tích cực, người thực thi nhiệm vụ năng lực yếu, thiếu trách nhiệm, phát ngôn không nhất quán thì rất khó làm. Do vậy, kinh nghiệm của Ban là phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương đề nghị cử cán bộ có năng lực, trách nhiệm và bảo đảm thông tin đến với dân công khai, minh bạch.
Kiến nghị, đề xuất
Như đã nêu ở trên, vấn đề hai giá trong GPMB dẫn đến hệ lụy doanh nghiệp tự thỏa thuận bồi thường với dân nên có khi phải "đi đêm", "phá giá", không bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp và công bằng giữa các hộ dân trong cùng một dự án. Có nơi doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, kinh doanh nhưng trong khuôn viên vẫn còn vài ngôi mộ vì không thỏa thuận được với người dân. Để khắc phục tình trạng này cơ quan chức năng và chính quyền các địa phương cần quan tâm lập quy hoạch cụ thể, chi tiết và công khai các cụm công nghiệp, làng nghề nhằm thu hút doanh nghiệp vào đầu tư, hạn chế tối đa việc doanh nghiệp phải thỏa thuận với dân về GPMB.
Trình tự, thủ tục về bồi thường GPMB, về cưỡng chế thu hồi đất đã được UBND tỉnh quy định rõ ràng, đặc biệt là quy định về công khai, minh bạch nhưng chính quyền một số địa phương, nhất là chính quyền cơ sở chưa làm tốt, có nơi chính quyền ngại tổ chức họp, đối thoại với dân. Người dân thiếu thông tin, những kiến nghị của dân chưa được giải đáp kịp thời dẫn đến thắc mắc, khiếu kiện. Khắc phục hạn chế này ngành chức năng cần quan tâm bồi dưỡng, tập huấn về công tác GPMB để nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm cho lực lượng liên quan, bảo đảm thực hiện nghiêm trình tự, thủ tục về GPMB.
Với những vướng mắc về xác định vị trí đất công ích, đất ở, đất vườn cần linh hoạt thực hiện bồi thường theo hiện trạng. Theo ông Lê Hồng Sơn, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, chuyên gia nước ngoài khuyến cáo, trong trường hợp việc xác định vị trí đất không có trong hồ sơ là lỗi quản lý đất đai của chính quyền nên việc bồi thường phải đặt lợi ích của người dân lên trên hết. Bảo đảm thực hiện quyền lợi chính đáng của người dân theo Luật Đất đai năm 2013 là giá bồi thường phù hợp với giá thị trường, nhiều ý kiến đề nghị tỉnh cần sớm điều chỉnh đơn giá trong bảng giá đất theo hướng nâng giá một số loại tài sản trên đất sát giá thị trường.
Để giải quyết vướng mắc việc cấp sổ đỏ chồng lấn hành lang giao thông; chưa xác định vị trí các loại đất, cơ quan chức năng và chính quyền địa phương cần kiểm tra, rà soát để thu hồi, cấp lại với những sổ đỏ đang bị cấp sai. Cùng đó tăng cường quản lý và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, lấn chiếm hành lang giao thông. Xử lý nghiêm những đối tượng vì lợi ích cá nhân xúi giục, kích động, gây mất đoàn kết và gây khó khăn cho GPMB.
Với những dự án xây dựng khu đô thị cần có cơ chế hỗ trợ phù hợp hơn và điều chỉnh hệ số, giá bồi thường bảo đảm hài hòa lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Nhiều hộ dân đề nghị Nhà nước, doanh nghiệp quan tâm hơn nữa việc đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp với các hộ trong diện bị thu hồi đất, làm thế nào người dân sau khi bị thu hồi đất có cuộc sống ít nhất bằng và cải thiện hơn. Có như vậy thì GPMB mới vừa có đất "sạch", vừa được lòng dân.
LAO ĐỘNG TRUNG TUỔI MẤT VIỆC LÀM
Giải B, năm 2017
Nhóm tác giả: Kim Hiếu, Mai Toan, Đỗ Quyên
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: THÊM TUỔI DỄ BỊ ĐUỔI VIỆC
Chính sách thu hút đầu tư của tỉnh Bắc Giang đã và đang góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tích cực, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hàng vạn lao động nông thôn. Nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp rất lớn, người lao động dễ tìm việc nhưng có một thực tế khá phổ biến là tuổi càng tăng thì khả năng mất việc càng cao.
Thất nghiệp - nỗi lo nhãn tiền
Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 2,3 nghìn DN đang hoạt động với hơn 155 nghìn công nhân. Hằng năm, các DN vẫn có nhu cầu tuyển dụng số lượng lớn lao động. Thống kê từ Phòng Dự báo thông tin thị trường lao động thuộc Trung tâm Dịch vụ việc làm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH), năm 2017, các DN trên địa bàn tỉnh có nhu cầu tuyển khoảng 45 nghìn công nhân, trong đó lao động phổ thông là 27,5 nghìn người, chủ yếu ở các lĩnh vực điện tử, dệt may, bao bì, chế biến nông sản... Đây là kết quả tích cực của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo đó là chuyển dịch cơ cấu lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp, là cơ hội giải quyết việc làm cho lực lượng lớn lao động trẻ ở nông thôn, đặc biệt là nữ.
Dù vậy, hiện nay đang tồn tại thực trạng, nhiều DN lớn, nhất là thuộc lĩnh vực điện tử không có nhu cầu ký tiếp hợp đồng với công nhân trên 35 tuổi sau khi hợp đồng xác định thời hạn lần thứ hai (từ 12 - 36 tháng) hết hạn theo quy định của pháp luật. Số liệu mới đây do Viện Công nhân và Công đoàn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam công bố, có tới 80% phụ nữ trên 35 tuổi trong các khu công nghiệp (KCN) đang bị sa thải. Lý do chủ yếu được giới chủ đưa ra là gặp khó khăn nên thu hẹp quy mô sản xuất hoặc NLĐ trung tuổi không đáp ứng được yêu cầu công việc khi máy móc, công nghệ thay đổi.
Trao đổi với ông Nguyễn Văn Huế, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm (Sở LĐ-TB&XH) được biết: Số lao động mất việc làm ở độ tuổi trung niên tăng dần qua các năm. Cụ thể, số người hưởng trợ cấp thất nghiệp thuộc nhóm hơn 40 tuổi những tháng đầu năm nay tăng gấp đôi so với cùng thời điểm này năm trước. Thậm chí, có những DN vừa sa thải hàng trăm lao động mà chỉ thời gian ngắn sau đó lại đến đơn vị đặt vấn đề kết nối để tuyển dụng con số bằng đúng số đã cho thôi việc, tiêu chí đặt ra là tuổi từ 18 đến 35.
Giữa năm 2016, tại huyện Tân Yên, Công ty TNHH Daeyang Hanoi (Cụm công nghiệp Đồng Đình, thị trấn Cao Thượng) cho gần 400 công nhân (trong đó có 34% người từ 35 tuổi trở lên) thôi việc với lý do thu hẹp sản xuất. Liên lạc với một số công nhân mất việc thời điểm đó đều nhận được chia sẻ, nhiều năm làm việc tại đây, họ đã đóng góp không ít cho DN và phần thu nhập ổn định giúp trang trải cuộc sống. Chị Đào Thị Hiệp (SN 1983), xã Phúc Sơn, từng 5 năm gắn bó tại Công ty TNHH Daeyang Hanoi nói: "Từ trước tới nay tôi chưa học qua lớp đào tạo nghề nào và chỉ quen với công việc may theo công đoạn trong dây chuyền sản xuất. Khi biết tin bị mất việc, chúng tôi rất buồn".
Long đong tìm việc mới
Tại các KCN hiện có tới 80% DN hoạt động trong lĩnh vực may mặc, điện tử, sử dụng nguồn nhân lực lớn với hàng chục nghìn người. Do đặc thù công việc chủ yếu là gia công, lắp ráp sản phẩm, không yêu cầu trình độ cao nên DN tranh thủ khai thác nguồn nhân lực từ 18 đến 35 tuổi. Sau vài năm sử dụng theo kiểu "vắt chanh bỏ vỏ", DN tìm cách cho lao động thôi việc khiến cơ hội tìm được công việc mới mang lại thu nhập ổn định của NLĐ ngày càng mong manh. Theo thống kê của Phòng Việc làm- An toàn lao động, Sở LĐ-TB&XH, năm 2016, toàn tỉnh có hơn 1,7 nghìn lao động 35 tuổi trở lên bị mất việc làm, chiếm 21,36% tổng số người thất nghiệp. Riêng từ đầu năm đến nay, có 540 lao động trong độ tuổi này mất việc, chiếm tỷ lệ 22,5%, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực lắp ráp điện tử.
Mấy tháng nay, anh Đỗ Văn Hòa (SN 1979), thôn Khả Lý Thượng, xã Quảng Minh (Việt Yên) mòn mỏi tìm việc làm mới. Anh đã vất vả tìm hiểu thông tin và nộp hồ sơ 4 nơi có vị trí phù hợp với chuyên môn cơ khí của mình nhưng chưa có DN nào gọi phỏng vấn. Được biết, trước đây khi đang làm việc ổn định thì DN nêu lý do hết đơn hàng nên cho anh thôi việc, hứa hẹn sau đó sẽ ưu tiên tuyển trở lại. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau, khi thấy DN đăng tin tuyển lao động, anh Hòa quay lại nộp hồ sơ thì nhận được câu trả lời "đã tìm được người”. Đưa khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán sau khi vừa vận chuyển gạch về công trình, anh buồn rầu kể: "Ở tuổi tôi bây giờ chuyển sang học nghề khác rất khó, lại là nam giới nên cơ hội vào DN càng ít. Tạm thời tôi đi làm phụ hồ cho cánh thợ xây trong xã để trang trải cuộc sống gia đình".
Thị trường lao động đang tồn tại nghịch lý: DN "khát" lao động, đăng tin tuyển dụng đến tận thôn xóm nhưng đồng thời vẫn liên tục cho nghỉ việc và không tuyển công nhân quá 35 tuổi. Theo số liệu cung - cầu tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh, số người có việc làm qua các phiên giao dịch chỉ chiếm hơn 30% so với tổng số lao động DN cần tuyển, trong khi số lao động 35 tuổi trở lên vẫn có thể đáp ứng công việc nhưng lại không được chú ý đến. Có thể nói, rào cản về tuổi đã và đang khiến phần lớn NLĐ trung niên long đong khi tìm công việc mới trong các nhà máy, xí nghiệp. Số ít lao động phổ thông trong nhóm tuổi này tìm được việc chủ yếu thu nhập thấp như phụ bếp, bảo vệ, vệ sinh nhà xưởng... Chị Nguyễn Thị Hòa (SN 1969) ở xã Đồng Sơn (TP Bắc Giang) làm việc tại Công ty TNHH Shin Sung Vina (KCN Song Khê - Nội Hoàng) được hơn 5 năm thì bị chấm dứt hợp đồng với lý do hết hạn và không tiếp tục ký mới. Cả gia đình trông vào đồng lương công nhân nên ngoài làm thủ tục để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, chị đang cố gắng tìm thông tin tuyển dụng để mong có được việc làm mới. Tuy nhiên, lĩnh vực may và sản xuất linh kiện điện tử có nhu cầu lớn về lao động phổ thông như chị Hòa thì hầu hết lại đòi hỏi tuổi dưới 35.
Theo ông Trần Văn Hà, Trưởng phòng Việc làm - An toàn lao động (Sở LĐ-TB&XH), nguyên nhân chủ yếu khiến DN áp dụng hình thức "sàng lọc" nhân lực này là do phần lớn công việc thuộc lĩnh vực lắp ráp điện tử đòi hỏi nhanh tay, nhanh mắt nên năng suất lao động của lao động trẻ thường cao hơn người trên 35 tuổi. Từ thực tế này, cộng với việc lương tối thiểu mỗi năm đều tăng, chưa kể quy định về xét nâng bậc lương hằng năm, tiền thâm niên, trả thêm ngày nghỉ phép năm... khiến chi phí DN phải trả cho người làm việc lâu năm tăng lên. Vì thế, chủ sử dụng đã tìm ra nhiều cách để cho công nhân lâu năm nghỉ việc đồng thời tuyển người mới vì mức lương khởi điểm cũng như các khoản chi phí khác cho người mới đều thấp hơn nhiều.
Tình trạng doanh nghiệp (DN) chấm dứt hợp đồng với những người lao động (NLĐ) 35 tuổi trở lên là vấn đề đáng lo ngại bởi nó ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong DN. Hơn nữa, sau một thời gian dài cống hiến với mức lương và mức đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) tăng dần với hy vọng khi đủ tuổi nghỉ hưu được hưởng chế độ hưu trí thì nay họ lại bị chủ sử dụng sa thải khiến việc đóng BHXH bị ngừng lại. Thông thường sau khi nghỉ việc, những người này không tiếp tục tham gia đóng BHXH và phần đông họ muốn nhận trợ cấp một lần. Do vậy, về lâu dài, không những NLĐ thiệt thòi mà chính sách an sinh xã hội cũng bị ảnh hưởng.
Cũng cần nói thêm, hậu quả do tình trạng sử dụng lao động theo kiểu "vắt chanh bỏ vỏ” và DN trốn đóng BHXH đều rất nghiêm trọng. Tính đến 30/6, số tiền nợ BHXH trên toàn tỉnh là 125 tỷ đồng, trong đó có 146 DN nợ từ 6 - 12 tháng, 38 đơn vị nợ trên 12 tháng. Ở những DN này, khi NLĐ bao gồm cả số trên 35 tuổi bị chủ sử dụng chấm dứt hợp đồng thì quyền lợi của họ sau thời gian dài làm việc khó có thể được bảo đảm. Để hạn chế tối đa tình trạng này, cần sự vào cuộc tích cực của các ngành liên quan, trong đó có cơ quan BHXH. Tới đây, chúng tôi sẽ chủ động phối hợp với công đoàn các cấp, ngành lao động - thương binh và xã hội đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của chủ DN trong việc thực hiện các quy định pháp luật về lao động, trong đó có chấp hành đóng BHXH đầy đủ cho NLĐ. Đặc biệt, NLĐ cũng cần tìm hiểu, nắm bắt quy định về những quyền lợi của mình trong quan hệ lao động để lên tiếng tự bảo vệ khi lợi ích bị xâm phạm.
KỲ II: ĐỂ KHÔNG LÃNG PHÍ NGUỒN NHÂN LỰC
Hiện nay, số công nhân ngoài 35 tuổi mất việc làm chủ yếu là lao động phổ thông, chưa được đào tạo nghề bài bản. Rào cản về tuổi tác, trình độ chuyên môn khiến nhiều người trong số này khó khăn khi mong muốn tiếp tục tham gia thị trường. Để khắc phục tình trạng này, tạo cơ hội việc làm bình đẳng theo lứa tuổi, tránh lãng phí nguồn nhân lực đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của ngành chức năng, chính quyền địa phương và doanh nghiệp (DN).
Kẽ hở pháp luật và thực trạng nguồn nhân lực
Ông Nguyễn Thế Dũng, Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) cho rằng, hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể nào về việc nghiêm cấm DN cho thôi việc đối với lao động trung tuổi. Bên cạnh đó, từ hoạt động kiểm tra, giám sát của ngành thời gian qua, một số DN khi chấm dứt hợp đồng với lao động trước thời hạn (như trường hợp Công ty TNHH Deayang Hà Nội, Cụm công nghiệp Đồng Đình - Tân Yên đã nêu trong kỳ trước) đều thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật như: Thông báo với cơ quan chức năng, chính quyền địa phương; chi trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động (NLĐ). Vì vậy, Sở nhận được rất ít phản ánh của NLĐ về việc bị DN sa thải trái pháp luật. Theo kết quả tiếp nhận hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp năm 2016, toàn tỉnh có 140 trường hợp bị DN sa thải nhưng lại do vi phạm kỷ luật lao động, chủ yếu là tự ý nghỉ việc quá 5 ngày cộng dồn trong một tháng. Điều này phía DN không vi phạm quy định của pháp luật. Ở một khía cạnh khác, có những công nhân do nhận thức hạn chế, tham cái lợi trước mắt khi được chủ sử dụng chi trả một số lợi ích nhất định mà đồng ý thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động (sau 18- 36 tháng làm việc) sau đó lại ký mới.
Khi chính sách pháp luật thiếu chặt chẽ, chưa đủ sức để bảo vệ lao động trung niên trước nguy cơ mất việc làm thì hạn chế về trình độ chuyên môn, tay nghề được xem là một rào cản lớn khiến lao động khó tìm được công việc mới phù hợp với năng lực bản thân và thu nhập ổn định. Hiện nay, phần lớn DN FDI đầu tư vào tỉnh có nhu cầu tuyển dụng lớn lại chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực gia công, lắp ráp nên không đòi hỏi cao về chất lượng nhân lực. Tại các khu công nghiệp (KCN) dễ dàng nhận thấy những tấm biển tuyển dụng con số hàng trăm đến hàng nghìn lao động. Tiêu chí chủ sử dụng đặt ra khá đơn giản, chỉ cần lao động từ 18 đến dưới 35 tuổi, tốt nghiệp THPT là có thể đi làm ngay, hưởng lương, phụ cấp ưu đãi.
Cũng bởi dễ dàng tìm được công việc phù hợp với hoàn cảnh như: Gần nhà, không mất tiền thuê trọ, có xe đưa đón, thu nhập từ 5 - 6 triệu đồng/tháng nên thời gian qua có tình trạng học sinh lớp 12 sau khi tốt nghiệp không theo học đại học, cao đẳng, cũng không mặn mà học nghề mà nhanh chóng đi làm trong các DN. Em Trịnh Thị Thủy, học sinh lớp 12A1, Trường THPT Mỏ Trạng (Yên Thế) chia sẻ: "Xác định khả năng hạn chế nên em khó có thể theo đuổi con đường học vấn. Thêm nữa, một khóa đào tạo ngắn hạn từ 3 - 6 tháng chắc cũng khó bảo đảm cho em tìm được một công việc vững chắc để ổn định cuộc sống trong tương lai. Vì thế, sau khi tham gia kỳ thi THPT quốc gia năm nay, em sẽ xuống các KCN để tìm việc”. Khi nguồn cung lao động trẻ dồi dào, DN dễ dàng tuyển dụng thì những công nhân lâu năm không được trang bị kiến thức, kỹ năng nghề, trình độ học vấn, chuyên môn hạn chế, lại làm việc một cách thụ động, dập khuôn theo công đoạn càng dễ mất việc làm.
Về lâu dài, thực tế này khiến chất lượng nguồn nhân lực trong tỉnh ngày càng thấp. Kết quả khảo sát 867 công nhân đang làm việc tại gần 40 DN trong các KCN của Liên đoàn Lao động tỉnh cho thấy, chỉ có 13,38% trong số này có trình độ cao đẳng, đại học; 15,22% trình độ trung cấp, còn lại 45,56% lao động mới chỉ tốt nghiệp THPT; 23,76% tốt nghiệp THCS còn lại là tiểu học.
Chủ động nâng cao chất lượng lao động
Cùng với hạn chế về học vấn, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề cũng không cao. Số công nhân học cao đẳng nghề chỉ đạt 15%, trung cấp 17,1%, còn lại 66,9% sau khi vào làm việc được DN đào tạo với thời gian rất ngắn từ một tuần đến 10 ngày là có thể vào các dây chuyền sản xuất. Theo dự báo của ngành LĐ-TB&XH, từ 10 - 15 năm nữa, số lao động trên 35 tuổi làm việc tại các DN sử dụng nhiều lao động, đa phần thuộc lĩnh vực điện tử sẽ không được chủ sử dụng ký tiếp hợp đồng sau khi hết hạn hợp đồng xác định thời hạn (từ 12 - 36 tháng) lần thứ hai. "Họ vẫn là lao động chính trong gia đình, còn sung sức và còn nhiều khả năng đóng góp cho hoạt động sản xuất của DN. Nhưng số người thất nghiệp ở độ tuổi trung niên tăng đột biến vào cùng thời điểm sẽ gây lãng phí lớn về nhân lực và trở thành bài toán khó cho chúng tôi. Nhất là khi tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, quỹ đất sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp dần”- ông Nguyễn Thế Dũng nói.
Trước mắt, trong năm 2017, Sở LĐTB&XH sẽ phối hợp với các sở, ngành liên quan, địa phương xây dựng, sớm hoàn thành Đề án Chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động trên 35 tuổi trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2017 - 2020; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, giao kết và thực hiện hợp đồng lao động, bảo đảm mối quan hệ hài hòa, ổn định trong DN. Nhằm kết nối, tạo việc làm cho NLĐ ngay khi họ bị chủ sử dụng chấm dứt hợp đồng, từ năm 2016, Trung tâm Dịch vụ việc làm (Sở LĐ-TB&XH) tiến hành rà soát nhu cầu sử dụng nhân lực của DN và khả năng đáp ứng ở các cơ sở đào tạo nghề. Xây dựng hệ thống dữ liệu kết nối giữa các đơn vị cung ứng nhân lực với DN trong nước và xuất khẩu lao động. Ông Nguyễn Văn Huế, Giám đốc đơn vị cho biết, cơ hội trở lại thị trường lao động trong nước không nhiều nên Trung tâm mở các lớp đào tạo các nghề giúp việc gia đình, xây dựng, cơ khí, chế tạo, lĩnh vực nông nghiệp; tổ chức tư vấn cho họ đi làm việc tại các thị trường nước ngoài ổn định. Từ năm 2015 đến nay, Trung tâm đã mở 37 lớp đào tạo nghề cho gần 6,2 nghìn lao động. Trong số này, nhiều người đã xuất cảnh sang làm việc ở các thị trường: Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, khu vực Trung Đông...
Về mặt chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hiện lao động trên 35 tuổi sau khi mất việc làm nếu đủ điều kiện thì được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, kèm theo được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí; hỗ trợ đào tạo nghề với mức 1 triệu đồng/người/tháng cho một khóa học tối đa không quá 6 tháng. Nhưng giải pháp quan trọng, lâu dài hơn cả là ngay từ đầu, nguồn nhân lực phải bảo đảm chất lượng, được trang bị kỹ năng nghề để đáp ứng thị trường. Theo đó, hệ thống các trường nghề cần tiếp tục đổi mới theo hướng thiết thực, đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo; chú trọng hơn nữa phương thức đào tạo theo địa chỉ để khi hoàn thành khóa học, lao động được DN nhận ngay vào làm việc. Đơn cử như từ cuối năm 2016, Trường Cao đẳng nghề Công nghệ Việt - Hàn liên kết với Tập đoàn Samsung (KCN Yên Phong, Bắc Ninh) và Tập đoàn LG (Hải Phòng) tổ chức cho sinh viên năm cuối thực tập tại DN. Đến nay gần 400 sinh viên khóa đầu tiên của trường đã được các DN tuyển dụng vào vị trí làm việc phù hợp với năng lực, mức thu nhập từ 6-10 triệu đồng/người/tháng.
Bên cạnh vai trò của cơ quan chức năng trong việc hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, thúc đẩy các chính sách giúp lao động tiếp cận với thị trường, NLĐ cũng cần mạnh dạn hơn trong quá trình tìm kiếm việc làm, tự khẳng định năng lực bản thân và chủ động học tập, nâng cao tay nghề, đáp ứng được nhu cầu để có việc làm ổn định. Ví như tại Công ty TNHH Điện tử Taeyang Việt Nam (KCN Đình Trám), khi quy trình sản xuất theo mặt hàng có thay đổi, DN sẽ tổ chức đào tạo cho công nhân theo hình thức "cầm tay chỉ việc”. Anh Nguyễn Duy Nhất, Chủ tịch Công đoàn, nhân viên bộ phận nhân sự của công ty cho biết: "Qua những lần đào tạo lại như vậy, chúng tôi sẽ sắp xếp lại vị trí việc làm phù hợp hơn. Những công nhân, trong đó có nhiều người trên 35 tuổi tích cực học tập, nâng cao tay nghề, đáp ứng yêu cầu trong dây chuyền thì vẫn được DN bố trí công việc, có nguồn thu ổn định, bình quân 6 triệu đồng/người/tháng”. "Thiết nghĩ, để giải quyết tình trạng này, cũng cần có sự vào cuộc của ngành chức năng trong việc đề xuất khắc phục lỗ hổng pháp luật về lao động. Tổ chức công đoàn các cấp - đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho NLĐ phát huy vai trò, thực hiện tốt chức năng giám sát nghĩa vụ đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp của DN. Đặc biệt, trong quá trình hướng dẫn, xây dựng thỏa ước lao động tập thể tại DN, công đoàn cơ sở đưa vào các nội dung ràng buộc trách nhiệm để ngăn ngừa tình trạng "vắt chanh bỏ vỏ” của chủ DN đối với NLĐ lâu năm” - ông Nghiêm Xuân Hưởng, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh nêu ý kiến.
XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH VÌ DÂN, CHUYÊN NGHIỆP, HIỆN ĐẠI
Giải B, năm 2017
Nhóm tác giả: Thanh Hải, Hoài Thu
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: YÊU CẦU TỪ THỰC TIỄN
C |
hương trình tổng thể cải cách hành chính đang được các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh triển khai quyết liệt. Trong đó tập trung đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy trình giải quyết hồ sơ và cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao nhằm xây dựng nền hành chính phục vụ, vì dân, trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại.
"Một đầu mối, một việc thông suốt"
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu giải quyết TTHC của người dân, doanh nghiệp (DN) ngày càng tăng. Thế nhưng thời gian trước, TTHC còn vướng mắc, quy trình giải quyết rườm rà, qua nhiều khâu, tốn thời gian, chi phí đi lại. Hạ tầng cơ sở thiếu thốn. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức không ít nơi chưa đáp ứng kịp yêu cầu; còn hiện tượng quan liêu, cửa quyền, hách dịch… Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, XVII, XVIII đều xác định CCHC là nhiệm vụ trọng tâm. Mục tiêu là xây dựng một nền hành chính phục vụ, vì dân, trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại.
Theo ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Nội vụ, để hoàn thành mục tiêu đặt ra, tỉnh chỉ đạo các cấp, ngành, địa phương triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Từ năm 2003 đến nay, trên cơ sở thực tiễn triển khai, các sở: Tư pháp, Nội vụ đã tham mưu với UBND tỉnh ban hành, sửa đổi, bổ sung và công bố bộ TTHC liên thông ba cấp (tỉnh, huyện, xã); các nội quy, quy định tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông… cho phù hợp thực tế. Trong đó có quy định cụ thể về thời gian tiếp nhận ở từng bộ phận, hạn trả kết quả; đơn vị có thẩm quyền quyết định. Các huyện, TP quan tâm bố trí ngân sách xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác CCHC; ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành và hoạt động. Sở Thông tin và Truyền thông triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, áp dụng dịch vụ công trực tuyến, bảo đảm nguyên tắc "một đầu mối - một việc thông suốt". Tỉnh chú trọng tuyển chọn cán bộ có trình độ, năng động, trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Qua những đợt kiểm soát TTHC, cơ quan chuyên môn kịp thời phát hiện, tham mưu UBND tỉnh sửa đổi, đơn giản về thành phần hồ sơ, trình tự giải quyết một số TTHC. Từ năm 2016 đến nay đã cắt giảm gần 30% thời gian giải quyết đối với 800 TTHC có thời hạn từ 15 ngày trở lên. Cụ thể như: Quyết định chủ trương đầu tư của UBND tỉnh đối với dự án không thuộc diện cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, thời gian giải quyết giảm từ 35 ngày xuống còn 23 ngày làm việc; thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với tài sản gắn liền với đất mà chủ sở hữu không đồng thời là người sử dụng đất giảm 20 ngày so với trước; thẩm định, phê duyệt bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đối với dự án đầu tư xây dựng công trình kho xăng dầu có dung tích kho từ hơn 210 m3 đến dưới 5.000 m3 giảm 30 ngày làm việc...
Đáng chú ý, tháng 9-2016, Trung tâm Hành chính công tỉnh đi vào hoạt động với sự tham gia của 22 cơ quan, đơn vị thuộc UBND tỉnh và một số ngành dọc T.Ư đóng trên địa bàn. Thay vì "gõ cửa” nhiều nơi như trước thì nay, người dân chỉ cần đến một địa chỉ là có thể giải quyết các TTHC, hạn chế tầng nấc trung gian trong giải quyết TTHC cho công dân, tổ chức. Tại Trung tâm Hành chính công tỉnh, chị Trần Thị Lương, thị trấn Nhã Nam (Tân Yên) lần đầu tiên đến làm thủ tục cấp mở hiệu thuốc tân dược. Chị cảm thấy hài lòng với thái độ, phong cách phục vụ của cán bộ một cửa Sở Y tế. Các giấy tờ, trình tự thủ tục liên quan đều được hướng dẫn chi tiết. "Đến Trung tâm Hành chính công tỉnh, mọi người đều tuân thủ theo thứ tự đã bấm số điện tử nên dù phải đợi tôi cũng thấy thoải mái”, chị Lương cho biết.
Bứt phá trên các bảng xếp hạng
Trước sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, ngành, đến nay những chỉ số về CCHC, năng lực cạnh tranh… của tỉnh đều cải thiện, tăng vượt bậc so với trước. Năm 2016, chỉ số PCI (năng lực cạnh tranh cấp tỉnh) của Bắc Giang có bước nhảy vọt, tăng 7 bậc và xếp thứ 33/63 tỉnh, TP. Trong các chỉ số thành phần được DN chấm điểm cao, nổi bật là thời gian thực hiện các quy định, giải quyết TTHC nhanh chóng, tạo môi trường kinh doanh ở Bắc Giang thông thoáng, thuận lợi nhất cho nhà đầu tư. Từ đầu năm đến hết tháng 11-2017, toàn tỉnh đã thu hút tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung quy đổi được 2,23 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay.
Trao đổi với bà Khổng Thị Thúy, Giám đốc Công ty TNHH Xã hội Phú Quý được biết: Tháng 4 vừa qua, Công ty TNHH liên doanh đầu tư quốc tế Group Phú Quý OIBC (liên doanh giữa Công ty TNHH Xã hội Phú Quý và Công ty OIBC Finance Investment - Group - Hong Kong) tổ chức ra mắt tại Bắc Giang. Trong số các kế hoạch phát triển, Công ty tập trung xây dựng Dự án Trung tâm Phục hồi chức năng quốc tế Phú Quý OIBC trên diện tích 13 nghìn m2. "Tỉnh đã tạo điều kiện cho DN đầu tư, quan tâm, lắng nghe và kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh. Các hồ sơ, thủ tục pháp lý từ khi nộp đến lúc nhận kết quả chưa đầy một tháng, điều mà trước đây khi thành lập Công ty TNHH Xã hội Phú Quý phải mất cả năm mới hoàn thành”, bà Thúy nói.
Các chỉ số PAPI (Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh); Par Index (Chỉ số CCHC- do Bộ Nội vụ đánh giá) cũng tăng vượt bậc trên bảng xếp hạng toàn quốc. Ví như, chỉ số PAPI năm 2016 của Bắc Giang đứng thứ 11/63 tỉnh, TP trong cả nước, tăng 9 bậc so với năm 2015 với tổng số 37,7 điểm, thuộc nhóm cao nhất. Trong 6 trục nội dung được đánh giá thì trục "Cải cách TTHC, giải quyết TTHC đối với người dân” đạt cao nhất (7,28 điểm). Chỉ số Par Index cũng nằm trong nhóm đầu cả nước năm 2016 và xếp thứ 13 toàn quốc. Trong đó hai chỉ số thành phần: Cải cách bộ máy hành chính và CCHC công xếp thứ 4 toàn quốc sau các tỉnh An Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bạc Liêu.
Số TTHC được giải quyết trước hạn và đúng hạn ngày càng tăng. Thống kê từ Trung tâm Hành chính công tỉnh, từ đầu năm đến nay, Trung tâm tiếp nhận gần 70 nghìn hồ sơ, tỷ lệ giải quyết đúng hạn và trước hạn đạt 97,7%. Nỗ lực xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp của các cấp, ngành tỉnh đã được nhân dân ghi nhận. Mới đây, qua khảo sát của Sở Tư pháp, gần 80% người dân được phỏng vấn đều hài lòng với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh. Đó là kết quả sự quyết tâm, nỗ lực rất lớn từ Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đến các sở, ngành, chính quyền huyện, TP và sự đồng thuận của người dân.
KỲ II: CON NGƯỜI LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH
Đẩy mạnh cải cách hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh quan tâm thực hiện và đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy vậy, trong quá trình triển khai vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Để xây dựng một nền hành chính vì dân, trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt hơn từ các cấp chính quyền và mỗi cán bộ, công chức, người dân.
Vẫn còn rào cản
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 19 sở, ngành, 10/10 huyện, TP, 230/230 xã, phường, thị trấn đã triển khai phần mềm một cửa điện tử liên thông. Do nhiều nơi sử dụng phần mềm khác nhau dẫn đến chưa kết nối chung được. Bên cạnh đó, một số sở còn có những phần mềm chuyên ngành, khiến công chức một cửa rất vất vả. Anh Đỗ Đình Phương, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (gọi tắt là bộ phận một cửa) UBND xã Tiên Nha (Lục Nam) cho biết: "Ngoài phần mềm một cửa điện tử liên thông, chúng tôi còn thao tác trên 3 phần mềm riêng của các lĩnh vực: Hộ tịch, kiểm soát TTHC, chứng thực hợp đồng. Vì vậy, cùng một nội dung giải quyết phải vào mấy hệ thống nên mất ít nhất 10-15 phút mới hoàn thành một hồ sơ, chưa kể lúc đường truyền không ổn định, thời gian còn kéo dài hơn...”. Khảo sát tại xã Tam Hiệp (Yên Thế), mặc dù được UBND xã phân công trực tại bộ phận một cửa tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ thuộc lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội song chị Lê Thị Hiệp, công chức xã cho biết, chị vẫn thường xuyên giải quyết TTHC của công dân tại phòng chuyên môn.
Tình trạng phần mềm dùng chung bị "treo", khó truy cập diễn ra khá nhiều, nhất là ở vùng sâu, miền núi. Trang thiết bị chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; bộ phận một cửa ở không ít địa phương không bảo đảm diện tích... Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức - những người trực tiếp giải quyết công việc chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặc dù các cấp chính quyền tổ chức nhiều đợt tập huấn về công nghệ thông tin, quy trình xử lý công việc song khi vận dụng vào thực tế, một số cán bộ thực hiện chưa tốt. Theo số liệu trên phần mềm dùng chung, suốt gần 7 tháng năm 2017, bộ phận một cửa xã Đồng Vương (Yên Thế) không tiếp nhận bất cứ hồ sơ nào. Lý giải về tình trạng này, anh Trần Xuân Mười, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch xã bộc bạch, anh chưa quen giải quyết công việc trên máy tính nên ngại nhập thông tin.
Thời gian gần đây, UBND tỉnh thành lập các tổ kiểm tra về thực hiện CCHC, ISO, công nghệ thông tin tại một số huyện, sở, ngành và phát hiện không ít cán bộ một cửa cấp xã còn lúng túng khi sử dụng phần mềm; làm tắt quy trình ISO. Ví như ở thị trấn Đồi Ngô (Lục Nam), cán bộ chuyên môn hằng ngày đều làm thay các phần việc của lãnh đạo địa phương trên phần mềm. Xã Tân Mỹ (TP Bắc Giang), công chức Tư pháp - Hộ tịch xã không nắm được phần mềm dùng chung cài ở đâu?. Khảo sát thực tế vẫn còn cảnh người dân phải tự cầm hồ sơ đến các phòng chuyên môn để giải quyết TTHC như ở xã Quang Châu (Việt Yên). Ở nhiều địa bàn khác, công dân có lúc phải chờ đợi do cán bộ, công chức vắng mặt trong giờ hành chính; nơi có cán bộ thì lại... làm việc riêng. Thực trạng vừa thiếu về cơ sở vật chất, trang thiết bị; vừa yếu về năng lực, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, công chức cũng đang là thách thức đối với công tác CCHC.
Nâng cao ý thức trách nhiệm
Thực tế hiện nay, cùng một quy trình nhưng có nơi làm tốt, có nơi làm kém. Điều này cho thấy, vấn đề con người mang yếu tố quyết định. Muốn CCHC hiệu quả, trước hết phải cải cách, thay đổi tư duy, lề lối làm việc của cán bộ, công chức. Đồng thời thực hiện kỷ cương, nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu, xử lý nghiêm cán bộ vi phạm. Mới đây, công chức Đặng Ngọc D, xã Trung Sơn (Việt Yên) vì vi phạm việc thực hiện quy trình một cửa, một cửa liên thông và nền nếp nên UBND huyện đã có quyết định kỷ luật bằng hình thức khiển trách và điều chuyển công tác, không được tiếp tục làm việc tại bộ phận một cửa. Cùng đó, huyện duy trì việc tổ chức kiểm tra hằng tháng về tình hình thực thi công vụ của đội ngũ này. Bằng những giải pháp đó, chỉ số CCHC của huyện Việt Yên năm vừa qua đã tăng vượt bậc.
Tương tự, tại bộ phận một cửa UBND huyện Hiệp Hòa được lắp camera, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch UBND huyện thường xuyên giám sát quá trình giải quyết công việc của cán bộ, công chức. Kết quả, huyện luôn nằm trong tốp đầu về CCHC của tỉnh. Thực tế cho thấy, cơ quan, đơn vị nào người đứng đầu sâu sát, chỉ đạo quyết liệt trong công tác này thì ở đó thường được xếp ở vị thứ cao trong bảng đánh giá, xếp hạng.
Xây dựng một nền hành chính phục vụ, vì dân, trong sạch, chuyên nghiệp và hiện đại rất cần sự chỉ đạo xuyên suốt, quyết liệt và quyết tâm của cả hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến các địa phương. Trong quá trình thực hiện, ngành chức năng thường xuyên rà soát lại hạ tầng cơ sở công nghệ, đường truyền mạng để có hướng khắc phục, nâng cấp; tích hợp, kết nối các phần mềm liên thông điện tử, phần mềm chuyên ngành. Các sở, ngành, địa phương rà soát, đơn giản hóa hồ sơ, quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết đối với tất cả TTHC, nhất là thủ tục liên quan đến đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp, như: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giấy phép xây dựng; đăng ký kinh doanh; thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường... Các cấp, ngành bao gồm cả cơ quan đảng, đoàn thể quan tâm ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào hoạt động chỉ đạo, quản lý và điều hành; cung cấp nhiều hơn các dịch vụ công mức độ 3, 4. Mục tiêu giải quyết các thủ tục nhanh gọn, tránh phiền hà. Trong buổi làm việc gần đây với một số ngành liên quan về CCHC, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Linh chỉ đạo Sở Nội vụ phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông nhanh chóng nâng cấp, xây dựng hệ thống phần mềm liên thông để việc triển khai nhiệm vụ được nhanh chóng, thuận tiện.
Đặc biệt coi trọng việc tuyển chọn và sắp xếp cán bộ thực thi công việc. Cũng theo ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Nội vụ, đây là yếu tố quan trọng quyết định thành công trong thực hiện CCHC. Qua kiểm tra ở các sở, ngành, địa phương cho thấy tại những nơi dù có phương tiện làm việc kém nhưng con người có trình độ chuyên môn, tinh thần làm việc nhiệt tình, trách nhiệm thì hiệu quả công việc vẫn đạt cao. Ngược lại dù được trang bị phương tiện tốt song người làm việc thiếu chuyên nghiệp, tắc trách thì kết quả không được như mong muốn. Bởi vậy, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt việc xây dựng đề án vị trí việc làm, từ đó lựa chọn những người ưu tú có đủ điều kiện về trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống... để đại diện cơ quan công quyền tiếp xúc và giải quyết công việc với nhân dân. Hiện một số địa phương, cơ quan đơn vị tiên phong trong công tác này. Điển hình như ngành y tế, bảo hiểm xã hội, tài chính... chỉ đạo cán bộ, nhân viên ứng xử theo phương châm "Nụ cười công chức” trong thực thi công vụ. Các huyện Việt Yên, Hiệp Hòa, Lạng Giang và TP Bắc Giang xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức "Liêm chính, năng động, chuyên nghiệp” với mục tiêu "ba hơn”, gồm: Chuyên nghiệp hơn, thân thiện hơn, hiệu quả hơn... Nhờ vậy kết quả giải quyết TTHC ở những đơn vị trên đều đạt kết quả đáng khích lệ.
Cùng đó, tăng cường kiểm tra, giám sát việc ban hành cũng như quá trình giải quyết các TTHC. Nghiêm khắc xử lý cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức ban hành các quy định hoặc có hành vi cản trở, chậm trễ, nhũng nhiễu. Qua đó tạo chuyển biến thực sự về kỷ luật, kỷ cương, năng lực quản lý, điều hành và chất lượng dịch vụ công. Phát huy hơn nữa vai trò giám sát của Ủy ban MTTQ các cấp để ngăn ngừa tiêu cực, nhũng nhiễu; kịp thời biểu dương cán bộ, công chức có thành tích xuất sắc trong công việc, thái độ ứng xử tốt được nhân dân ghi nhận. Thực hiện CCHC cần rõ trọng tâm và tạo điểm nhấn trong từng giai đoạn. Có giải pháp cụ thể mang tính đột phá, tạo chuyển biến rõ nét trong chỉ đạo, điều hành và thực thi công vụ. Quá trình triển khai cần gắn với thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm công bằng, khách quan và minh bạch. Bên cạnh những cố gắng từ cấp ủy, chính quyền, người thực thi công vụ thì chính người dân cũng cần nâng cao kiến thức, văn hóa ứng xử nơi công sở; phản ánh kịp thời những vướng mắc về TTHC tới các sở, ngành... đến giao dịch để giúp các đơn vị khắc phục thiếu sót trong quá trình thực hiện.
TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG SINH HOẠT ĐẢNG
Giải B, năm 2018
Nhóm tác giả: Minh Ngọc, Công Doanh
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: CHUYỂN BIẾN TỪ THỰC TIỄN
T |
ự phê bình và phê bình (TPB- PB) là công việc không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), đảng viên. Nhận thức rõ vai trò ấy, thời gian qua, nhất là khi thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhiều cấp ủy trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã vận dụng vào thực tiễn bằng những cách làm hay.
Nêu cao tính dân chủ, thẳng thắn
"Kỳ sinh hoạt Chi bộ tháng 5 vừa qua, tôi bị phê bình do chưa quyết liệt trong chỉ đạo giải tỏa hành lang làm đường trong thôn. Cá biệt, có đảng viên yêu cầu Chi bộ ra Nghị quyết nếu như tiến độ làm đường chậm so với quy định, cá nhân đồng chí Bí thư phải chịu trách nhiệm chính. Chúng tôi không thấy buồn vì chuyện đó, trái lại từ phê bình của đảng viên đã giúp Chi ủy nhận ra khiếm khuyết để khắc phục, sửa chữa”, đồng chí Ngô Đức Tích, Bí thư Chi bộ thôn Tân Sơn 1, xã Tân Dĩnh (Lạng Giang) chia sẻ về việc TPB-PB trong sinh hoạt Đảng của Chi bộ. Dù Chi bộ chỉ có 18 đảng viên nhưng các kỳ sinh hoạt có khá nhiều ý kiến xây dựng. Không ít đảng viên có quan hệ họ hàng nhưng nếu mắc khuyết điểm cũng được phê bình thẳng thắn. "Dịp kiểm điểm, xếp loại đảng viên cuối năm, Chi bộ họp sâu, nhận xét chi tiết ưu, khuyết điểm từng đồng chí. Nhiều lần, chúng tôi phải họp đến khuya mới xong”, đồng chí Nguyễn Thị Quý, Chi ủy viên nói.
Ở Chi bộ Tổ dân phố Đàm Thuận Huy, phường Trần Phú (TP Bắc Giang), việc TPB-PB cũng được thực hiện nghiêm túc. Đơn vị có 63 đảng viên, trong đó 90% là cán bộ nghỉ hưu và một số đảng viên đang làm trong doanh nghiệp (DN) sinh hoạt ghép. Đảng viên nhiều, sức chiến đấu mạnh nên hầu như họp Chi bộ luôn "nóng” bởi các ý kiến đóng góp, phê bình, xây dựng cho đảng viên và Chi bộ. Đồng chí Bùi Thị Hằng, Bí thư Chi bộ đã 7 năm cho biết, Chi ủy, trong đó có cá nhân chịu nhiều áp lực khi phê bình ai đó vì phần lớn đảng viên ở đây từng kinh qua nhiều chức vụ lãnh đạo nay nghỉ hưu song không vì thế mà e dè, cả nể. Nếu ai có khuyết điểm đều bị phê bình, kể cả mất lòng. Một số đảng viên tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc, sống "được lòng” Chi ủy, Chi bộ nhưng mắc khuyết điểm cũng không nương nhẹ."Cách đây vài tháng, trong sinh hoạt Chi bộ, chúng tôi đã yêu cầu một đồng chí là đại biểu HĐND phường ra khỏi cuộc họp vì nhận thức và phát ngôn chưa chuẩn liên quan đến việc giải tỏa hành lang xây dựng công trình trên địa bàn, quanh co không nhận khuyết điểm”, đồng chí Bùi Thị Hằng cho biết. Cũng do làm tốt TPB-PB, 5 năm qua, Chi bộ liên tục đạt trong sạch vững mạnh (TSVM).
Tại Chi bộ Quản lý hành chính và Trật tự xã hội, Đảng bộ Công an TP Bắc Giang, do đặc thù công việc, cán bộ của Đội thường xuyên tiếp xúc với công dân, đầu việc nhiều, áp lực lớn nhưng 22 đảng viên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, đơn vị là điểm sáng trong phong trào thi đua của cơ quan. Tuy nhiên, Chi bộ không bằng lòng với những việc đã làm. Mỗi kỳ sinh hoạt, Chi ủy, Chi bộ đều kiểm điểm sâu, kỹ từng nội dung, không qua loa, chiếu lệ. "Hằng tuần, cán bộ phải liệt kê chi tiết phần việc, thời gian giải quyết. Căn cứ kế hoạch đó, nếu đảng viên chưa hoàn thành bị trừ điểm thi đua. Trong Chi ủy có 2 đồng chí là lãnh đạo nhưng hiếm khi tự nhận hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”, đồng chí Hà Trọng Hiếu, Bí thư Chi bộ cho biết.
Hiện toàn tỉnh có 738 TCCSĐ, trong đó 369 đảng bộ cơ sở với gần 81 nghìn đảng viên. Xác định TPB-PB có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của Đảng, những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; hầu hết các chi, đảng bộ nghiêm túc quán triệt các văn bản của T.Ư, tỉnh, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động. Đáng chú ý, Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh ủy đã ban hành Công văn số 624-CV/TU ngày 1-3-2017 về chế độ TPB-PB trong sinh hoạt cấp ủy và chi bộ.
Theo đó, trong hội nghị sinh hoạt chi bộ hằng tháng, mỗi đảng viên phải tự đối chiếu với các biểu hiện về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ để tự giác kiểm điểm cá nhân theo tinh thần TPB bằng hình thức phát biểu tại cuộc họp. Chi ủy gợi ý kiểm điểm đối với đảng viên nếu thấy có biểu hiện vi phạm. BTV Đảng ủy cơ sở và cấp trên ngoài kiểm điểm chung của tập thể còn nói rõ đến từng thành viên cấp ủy (BTV, Ban Chấp hành) và tổ chức đảng trực thuộc. Đặc biệt, ở những TCCSĐ có biểu hiện vi phạm được gợi ý kiểm điểm làm rõ, sinh hoạt chuyên đề sâu để tự kiểm điểm, có lãnh đạo cấp ủy cấp trên dự và chỉ đạo…
Hai năm qua, BTV Tỉnh ủy đã gợi ý, kiểm điểm sâu 21 tập thể, 27 cá nhân; chỉ đạo BTV cấp ủy cấp huyện gợi ý kiểm điểm 107 tập thể, 146 cá nhân hoàn thành nhiệm vụ, kết quả còn thấp hoặc có vấn đề phức tạp, dư luận bức xúc. Sau kiểm điểm đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục; từ đó tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của mỗi cán bộ, đảng viên, TCCSĐ.
Đánh giá sát thực hơn
Minh chứng rõ nét về thực hiện TPB-PB ở các TCCSĐ thời gian qua là ngoài đóng góp ý kiến tại các buổi sinh hoạt, kiểm điểm của chi ủy, đảng viên; việc đánh giá, phân loại TCCSĐ, chất lượng đảng viên chặt chẽ, sát thực hơn. Đồng chí Thân Văn Dàn, Bí thư Huyện ủy Lục Nam cho biết: Năm vừa qua, khi đánh giá, phân loại tổ chức đảng, đảng viên, không có đồng chí trong BTV Huyện ủy tự nhận hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vì liên quan tới một đồng chí là Chủ tịch Hội Nông dân vi phạm chính sách dân số- KHHGĐ. Trong sinh hoạt tháng, cấp ủy, mỗi đảng viên tự soi rọi, đối chiếu với 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ đã được T.Ư Đảng chỉ rõ theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) để kiểm điểm.
Hai năm qua, Đảng bộ TP Bắc Giang có 27 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó khai trừ 7 trường hợp ra khỏi Đảng. Năm 2017, khi đánh giá, xếp loại cán bộ cấp ủy cơ sở, diện BTV Thành ủy quản lý, lãnh đạo các phòng, ban, đơn vị, cán bộ chủ chốt phường, xã, tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảm từ 3,5-4% so với năm trước.
Ở huyện Lạng Giang, năm qua, BTV Huyện ủy đã gợi ý kiểm điểm sâu 19 tập thể, 35 cá nhân diện BTV Huyện ủy quản lý. Đáng chú ý, nhiều đơn vị tổ chức hội nghị kiểm điểm đột xuất, như: Đảng ủy xã Tân Hưng, Tân Dĩnh tổ chức hội nghị Đảng ủy và chỉ đạo 4 chi bộ trực thuộc kiểm điểm để nhận diện, làm rõ các biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ. Qua đó chỉ ra ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm của tập thể, cá nhân; nhận diện và kịp thời chấn chỉnh biểu hiện suy thoái.Mặt khác, chỉ đạo UBND huyện thực hiện khảo sát, lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân, DN tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đối với 23/23 xã, thị trấn. Coi đây là một trong những căn cứ để chi, đảng bộ cơ sở đánh giá, phân loại TCCSĐ, đảng viên cuối năm. Đồng chí Nguyễn Việt Oanh, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy cho biết, để TPB-BP mang lại hiệu quả, từ cuối năm 2017, Huyện ủy chỉ đạo tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác Đảng cho tất cả ủy viên Ban Chấp hành các chi bộ của 23 xã, thị trấn, trong đó coi trọng nội dung, phương pháp TBP-PB.
Theo đồng chí Hoàng Công Bộ, Phó trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, qua nắm bắt, theo dõi, nhìn chung việc TPB-PB thời gian qua được các chi, đảng bộ thực hiện nghiêm túc, có nhiều cách làm mới. Tập thể, cá nhân thẳng thắn chỉ ra biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII), đồng thời đề ra biện pháp khắc phục kịp thời. Qua TPB-PB góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị.
KỲ II: CÓ "BỆNH” PHẢI CHỮA
Tự phê bình và phê bình (TPB-PB) trong Đảng bộ tỉnh Bắc Giang có nhiều chuyển biến song vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, chưa trở thành nhiệm vụ thường xuyên ở một số cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ). Do đó, tìm ra căn nguyên, giải pháp nâng cao chất lượng TPB- PB là vấn đề cần quan tâm, qua đó góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh.
Vẫn còn nể nang, né tránh
Qua đánh giá của cấp ủy cũng như tìm hiểu, nắm bắt thực tế, việc kiểm điểm TPB- PB ở một số nơi còn biểu hiện hình thức. Tình trạng phê bình qua loa, nể nang, chiếu lệ vẫn còn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức về việc tự kiểm điểm còn chưa đầy đủ, TPB-PB chưa tự giác, gương mẫu, tính chiến đấu yếu, còn tư tưởng nể nang, né tránh, "dĩ hòa vi quý”… ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ.Nguyên nhân chính là do cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên một số địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp (DN) chưa nhận thức đúng đắn việc kiểm điểm TPB-PB theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) của Đảng, thiếu kiên quyết trong chỉ đạo, thực hiện...
Đáng chú ý, thực trạng đảng viên ở cơ quan, DN ngại phê bình đồng chí, đồng nghiệp vẫn còn, nhất là tại DN tư nhân. Đảng bộ Khối DN tỉnh có 68 chi, đảng bộ trực thuộc với gần 3.200 đảng viên, trong đó 70% DN là DN dân doanh, đa phần lãnh đạo tham gia cấp ủy, đảm nhận trọng trách bí thư chi bộ. Các đơn vị này chủ yếu tập trung sản xuất kinh doanh, lao động hợp đồng phấn đấu tốt được bồi dưỡng, tạo nguồn, kết nạp Đảng.Ở một số chi bộ, tính chiến đấu còn hạn chế do đảng viên e ngại, không dám góp ý, phê bình cấp ủy, người đứng đầu. "Phần lớn chủ DN có quyền lực trong tay, công nhân, người lao động dù biết khuyết điểm của cấp trên nhưng không dám phê bình, e ngại sẽ bất lợi cho mình về vị trí việc làm và lợi ích kinh tế”, đồng chí Nguyễn Xuân Vượng, Bí thư Đảng ủy Khối DN tỉnh nói.
Về mặt tâm lý, phần lớn mọi người thích được khen chứ không thích bị phê bình. Góc độ TPB, mọi người dễ cho rằng tự nói ra và nhận khuyết điểm nghĩa là tự thừa nhận sự non kém của mình. Ở một số TCCSĐ có người mắc khuyết điểm nhưng vẫn được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được khen thưởng, bổ nhiệm hay giới thiệu ứng cử chức vụ cao hơn. Như vậy là chưa gắn TPB-PB với các khâu của công tác tổ chức cán bộ. Không ít trường hợp bị kỷ luật về đảng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự là do đơn thư tố cáo của công dân gửi đến cơ quan chức năng chứ không phải bởi đấu tranh phê bình từ trong chi bộ.
Năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra (Công an tỉnh) ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Nguyễn Tiến Duẩn, nguyên Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy Yên Dũng vì hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong thời gian giữ chức vụ Trưởng phòng Lao động- Thương binh và Xã hội huyện. Qua vụ việc này, dư luận đặt câu hỏi liệu những khuyết điểm, sai phạm của ông Duẩn có bị "che lấp” bởi sự nể nang, không dám đấu tranh phê bình đồng chí, đồng nghiệp của cấp ủy, chi bộ nơi sinh hoạt (?!).
Ở huyện Lục Nam, ba năm gần đây, một số cán bộ cấp xã diện Ban Thường vụ (BTV) Huyện ủy quản lý bị xử lý kỷ luật do vi phạm nguyên tắc sinh hoạt đảng, những điều đảng viên không được làm, thậm chí có trường hợp phạm pháp phải ra tòa. Ví như ông Phạm Bá Hà, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Cẩm Lý; ông Phạm Văn Sú, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Bắc Lũng…
Tuy nhiên, khi xếp loại đảng viên hằng năm, cấp ủy, chi bộ đều đánh giá hoàn thành tốt hoặc xuất sắc nhiệm vụ. Hay như ở huyện Lục Ngạn, cuối năm 2017, UBKT Tỉnh ủy xem xét, quyết định thi hành kỷ luật và kết luận vi phạm đối với hai đồng chí cán bộ chủ chốt diện BTV Tỉnh ủy quản lý do trước đây có vi phạm khuyết điểm liên quan đến quản lý nhà nước về đất đai, gây dư luận không tốt trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín tổ chức Đảng. Đáng chú ý, khi lấy phiếu biểu quyết hình thức kỷ luật ở chi bộ các đảng viên này đang sinh hoạt, không có ý kiến nào đề nghị hình thức kỷ luật mà bỏ phiếu trống cho dù UBKT Tỉnh ủy đã có kết luận về nội dung, mức độ vi phạm.
Qua đó cho thấy, ngay trong nội bộ cơ quan, chi bộ dù biết khuyết điểm, sai phạm của đồng chí, đồng nghiệp nhưng tinh thần phê bình còn yếu. Nhìn rộng ra các vụ án liên quan đến người đứng đầu là lãnh đạo quản lý, giữ chức vụ cao trong TCCSĐ ở một số bộ, ngành T.Ư, tỉnh, TP thời gian qua, hàng loạt cán bộ bị cơ quan chức năng thi hành kỷ luật, cách chức, khởi tố với những sai phạm khác nhau nhưng đáng lên án là suốt thời gian dài, những cán bộ đó được cấp ủy, TCCSĐ bao che, bưng bít. Đây là bài học đắt giá trong khâu kiểm điểm, đánh giá cán bộ, đảng viên.
Đảng viên nêu gương, cấp ủy sâu sát
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, TPB-PB là việc phải làm thường xuyên như "rửa mặt” hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên. Đó là thứ vũ khí vô cùng sắc bén làm trong sạch nội bộ, làm cho TCCSĐ ngày càng vững mạnh. Theo Người, "Khuyết điểm cũng như chứng bệnh, phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh không dám uống thuốc để đến nỗi bệnh ngày càng nặng”.
Thực tiễn cho thấy, để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của TPB-PB, trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên cần tự giác học tập và rèn luyện đạo đức, lối sống. Cấp ủy cần làm tốt việc thu thập thông tin về ưu, khuyết điểm trong lãnh đạo của chi bộ, cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ chủ chốt để định hướng và tổ chức thực hiện TPB-PB trong mỗi kỳ sinh hoạt. Cần tạo không khí cởi mở, chân tình, khích lệ mọi người phát huy tính chủ động, dân chủ, mạnh dạn góp ý, phê bình sự lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ cũng như TPB-PB lẫn nhau một cách thẳng thắn, mang tính xây dựng cao, cùng tiến bộ.
Đồng chí Trần Thanh Hải, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Bắc Giang cho rằng, muốn nâng cao chất lượng TPB, mỗi TCCSĐ cần cụ thể hóa các tiêu chí như: Tư tưởng, chính trị; lãnh đạo, kết quả thực hiện nhiệm vụ, chấp hành kỷ luật… Có như vậy, TPB-PB mới trọng tâm, sát thực. Trong TPB-PB, cán bộ lãnh đạo, quản lý gương mẫu đi đầu. Mỗi cấp ủy có thái độ nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế của từng đảng viên, nhất là lãnh đạo chủ chốt để kịp thời uốn nắn, sửa chữa.
Theo đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, đơn vị sẽ tiếp tục tham mưu Tỉnh ủy chỉ đạo các TCCSĐ nêu cao ý thức TPB-PB, nhận diện các biểu hiện suy thoái theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn với việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh thực hiện công văn số 624, ngày 1-3-2017 của BTV Tỉnh ủy về chế độ TPB-PB trong sinh hoạt cấp ủy và chi bộ, trong đó đảng viên phải tự đối chiếu 27 biểu hiện về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ; đề cao vai trò, trách nhiệm của chi bộ, cấp ủy đảng trực tiếp quản lý đảng viên. Ban Tổ chức đang xây dựng kế hoạch trình BTV Tỉnh ủy cụ thể hóa nội dung kiểm điểm, tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng TCCSĐ, đảng viên, trong đó sẽ sửa đổi, bổ sung quy trình kiểm điểm, đánh giá cán bộ, đảng viên một cách đồng bộ, rõ trách nhiệm từng tập thể, cá nhân, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng TPB-PB, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh.
ĐỐI THOẠI GIẢI QUYẾT CÁC ĐIỂM NÓNG
CÁCHLÀM CỦA BẮC GIANG
Giải B, năm 2018
Nhóm tác giả: Thanh Huyền, Giang Nam,
Ngọc Sơn, Đức Bích
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
T |
ăng cường tổ chức các cuộc tiếp xúc, đối thoại với nhân dân là nhiệm vụ được Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu các cấp trong tỉnh thực hiện thời gian qua. Thông qua đó, giúp người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, tạo sự đồng thuận cao trong thực hiện nhiệm vụ của địa phương. Đồng thời, kịp thời giải quyết các điểm nóng tồn tại, hạn chế tình trạng đơn thư, khiếu nại vượt cấp ở địa phương, đơn vị.
Những kênh… mương… dòng sông… con đường... ngập tràn rác thải đủ loại, hôi thối, ô nhiễm nghiêm trọng…
Những cánh rừng bị thiêu rụi đến trơ trụi…
Đơn thư, khiếu nại của công dân kéo dài hàng chục năm bị cho vào quên lãng… Những điểm nóng đã tồn tại ở cơ sở chưa được quan tâm, giải quyết khiến cho nhân dân bức xúc, sa sút niềm tin vào trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp
PV: Ông Nguyễn Văn Minh, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa
PV: Bà Nguyễn Thị Hiền, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa
Hình ảnh Bí thư huyện ủy Tân Yên chỉ đạo: tiếng động trích…
Ai quan tâm, ai giải quyết? Câu hỏi đó từng được nhân dân thôn Kim Sa xã Ngọc Thiện huyện Tân Yên mong mỏi, chờ đợi suốt bao nhiêu năm về mơ ước có được một cây cầu bê tông thay thế cho cây cầu sắt xuống cấp, là nỗi đe dọa tính mạng của bao người dân nơi này.
Thế nhưng, thay vì quan tâm xuống tận nơi, xem xét, giải quyết thì những kiến nghị chính đáng của nhân dân bị cho vào quên lãng chỉ bởi 1 lý do: không có kinh phí… Thôn Kim Sa vốn nghèo, nằm cách xa trung tâm xã hơn chục km lại có vài chục hộ dân sinh sống. Mỗi khi mưa to, bão lũ, thôn bị chia cắt nên mơ ước về cây cầu bê tông càng thêm quá xa xôi. Chỉ đến khi đồng chí Bí thư Huyện ủy thực hiện việc tiếp xúc, đối thoại, đến tận nơi, chứng kiến những gì nhân dân trong thôn phải trải qua; đồng thời, yêu cầu thực hiện ngay việc hỗ trợ nhân dân xây dựng cầu bê tông mới.
PV: Ông Phạm Văn Đoán, Bí thư Chi bộ thôn Kim Sa, xã Ngọc Thiện, huyện Tân Yên (nhân dân phấn khởi, mơ ước bao năm thực hiện…)
Hệ thống đường giao thông xuống cấp… Những khó khăn về giao thông đi lại từng phát sinh nhiều điểm nóng phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân trên địa bàn huyện Tân Yên. Tăng cường xuống cơ sở, tổ chức các cuộc đối thoại để lắng nghe nhân dân nói, nhân dân kiến nghị, đề xuất, Huyện ủy Tân Yên đã xây dựng cơ chế hỗ trợ và phát động phong trào làm đường giao thông nông thôn. Qua đó, đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành kế hoạch, rồi HĐND thông qua Nghị quyết về hỗ trợ làm đường giao thông nông thôn:
PV: Đ/c Lâm Thị Hương Thành, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Huyện ủy Tân Yên (đối thoại giải quyết như thế nào…)
Từ việc đối thoại, quan tâm giải quyết ý kiến của nhân dân, phong trào làm đường giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh phát triển sâu rộng.Với cơ chế được tỉnh khuyến khích hỗ trợ 100% xi măng và công vận chuyển đến công trình, nhân dân đóng góp bằng ngày công, hàng nghìn km đường bê tông từ miền núi đến vùng xuôi được thi công xây dựng. Những con đường mới đẹp, khang trang đã củng cố thêm niềm tin trong các tầng lớp nhân dân về chủ trương đúng, xóa đi những điểm bức xúc, những điểm nóng từng phát sinh trước đây về tình trạng giao thông xuống cấp.
Trong 1 đêm mà hàng trăm héc ra rừng bị thiêu rụi, trơ trọi bởi mâu thuẫn, tranh chấp đất rừng chưa được giải quyết…
Tình trạng chặt phá rừng ngang nhiên diễn ra bởi sự tiếp tay của một số cán bộ địa phương…
Rác thải ngập tràn dòng kênh, mương… Sự bế tắc trong giải quyết thu gom, xử lý rác thải…
Công tác giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm chậm tiến độ, không nhận được sự ủng hộ, đồng thuận của nhân dân…
Rất nhiều những vấn đề nảy sinh từ chủ trương, định hướng phát triển kinh tế và trong chính sách an sinh xã hội từ cơ sở chưa được giải quyết, phát sinh các điểm nóng dẫn đến đình công, biểu tình… Chủ trương tăng cường xuống cơ sở với phương châm: sẵn sàng đối thoại, luôn luôn lắng nghe, các cuộc đối thoại giữa người đứng đầu cấp tỉnh đến huyện,xã, thôn với nhân dân trong tỉnh được thực hiện nhằm giải quyết dứt điểm những tồn tại trên.
Từ khi Huyện ủy Hiệp Hòa ban hành Nghị quyết chuyên đề về đối thoại, tổ chức khoán việc cho cấp ủy, người đứng đầu, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Danh Thắng xây dựng kế hoạch, giao nhiệm vụ cho từng đồng chí ủy viên đảm nhận giải quyết từng việc còn tồn tại. Với cách giao khoán việc như vậy, người đứng đầu và các đồng chí cấp ủy đã nâng cao được trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, khắc phục được nhiều hạn chế so với trước đây. Qua đó, củng cố, nâng cao hơn nữa năng lực, sức chiến đấu của tổ chức đảng, phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu.
PV: Ông Nguyễn Văn Quý, Bí thư Đảng ủy xã Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa
PV: Đ/c Nguyễn Thị Hoa, Bí thư Huyện ủy Hiệp Hòa
Người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trực tiếp tham gia đối thoại với các tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức: đối thoại định kỳ, chuyên đề, đột xuất, theo nhóm đối tượng… đã lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và kịp thời giải đáp, giải quyết những vấn đề bức xúc mà nhân dân đặt ra.
PV: Ông Mai Sơn, Chủ tịch UBND thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang
Tập trung đối thoại, giải quyết những điểm nóng, phát sinh, tồn tại ở cơ sở, có sự tham gia giám sát của MTTQ và các đoàn thể nhân dân và trách nhiệm kiểm điểm tiến độ sau giải quyết, thông qua đối thoại đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc kéo dài hàng chục năm.
Ông Giáp Văn Kháng ở thôn Sấu xã Liên Chung huyện Tân Yên từng 20 năm theo đuổi vụ tranh chấp đất đai với hàng trăm lá thư được gửi từ địa phương đến trung ương. Vụ việc sẽ không kéo dài, xã Liên Chung sẽ không trở thành điểm nóng về tình trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp nhiều năm nếu mỗi cán bộ, chính quyền địa phương nêu cao tinh thần, trách nhiệm giải quyết dứt điểm vụ việc này.
PV: Ông Nguyễn Tiến Khương, Chủ tịch UBND xã Liên Chung, huyện Tân Yên
(không để tư tưởng, nhiệm kỳ, giải quyết dứt điểm, thỏa đáng…)
PV: Ông Hoàng Văn Bắc, Chánh Thanh tra huyện Tân Yên
(giảm số vụ đơn thư khiếu nại từ đối thoại..)
Gần 1 nghìn cuộc tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng các cấp, với trên 31nghìn lượt người tham dự, 9300 ý kiến được giải quyết. Gần 1 nghìn cuộc đối thoại giữa người đứng đầu chính quyền các cấp với nhân dân với trên 40 nghìn lượt người tham dự, hàng trăm vụ việc là điểm nóng, tồn tại nhiều năm ở cơ sở, địa phương được giải quyết.
PV: Đ/c Bùi Văn Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang (tăng cường chỉ đạo phát huy vai trò người đứng đầu…)
Không còn điểm nóng, điểm phát sinh tồn tại ở cơ sở nếu người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương nêu cao tinh thần trách nhiệm, nêu gương, tăng cường xuống cơ sở, khắc phục tình trạng xa dân, quan liêu vốn tồn tại trước đây. Chủ trương đối thoại giải quyết điểm nóng, lắng nghe nhân dân kiến nghị, đóng góp, hiến kế phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng tiếp tục được tỉnh Bắc Giang thực hiện với nhiều cách làm sáng tạo.
Đ/c Trương Thị Mai, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư TW Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương (cách làm của Bắc Giang cần được nhân rộng...)
Một cây cầu nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn thành phong trào làm đường sâu rộng bắt nguồn từ cơ sở…
Một vụ việc phức tạp, kéo dài 20 năm được giải quyết dứt điểm nhờ sự lắng nghe, đối thoại…
Những cánh rừng đang hồi sinh từng ngày…
Bắt đầu từ nhân dân, từ sự thấu hiểu, chia sẻ và quyết liệt trong giải quyết, chủ trương đối thoại giải quyết các điểm nóng, các vấn đề tồn tại ở cơ sở của tỉnh Bắc Giang đã cho thấy hiệu quả bằng chuyển biến toàn diện trên quê hương, bằng những đổi thay từng ngày ở khắp các miền quê đến thành thị…
ĐẢNG VIÊN GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO
Giải B, năm 2018
Nhóm tác giả: Vân Anh, Thu Phong
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: LAN TỎA VIỆC TỐT, CÁCH LÀM THIẾT THỰC
V |
ới mục tiêu giúp người nghèo thay đổi nếp nghĩ, cách làm, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, nhiều đảng viên đã lựa chọn việc giúp đỡ hộ nghèo, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người đảng viên. Bằng những cách làm như: Hỗ trợ trực tiếp theo phương châm "cầm tay, chỉ việc”, tư vấn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất… nhiều hộ đã vươn lên thoát nghèo.
Từ nghị quyết đến cuộc sống
Đồng chí Phạm Việt Dũng, Phó Bí thư Huyện ủy Lục Ngạn chia sẻ: "Để công tác giảm nghèo đem lại hiệu quả thiết thực, một số cấp ủy cấp xã đã ra nghị quyết phân công đảng viên giúp đỡ hộ nghèo. Bên cạnh đó, phát huy tinh thần tương thân tương ái, ngày 4-3-2017, BTV Huyện ủy Lục Ngạn có công văn chỉ đạo 11 xã, thị trấn vùng thấp kết nghĩa với 11 xã vùng cao đặc biệt khó khăn.Quán triệt mục đích của việc làm ý nghĩa này, hằng năm, các xã vùng thấp cử cán bộ đến xã kết nghĩa khảo sát nhu cầu cần giúp đỡ; đồng thời phối hợp với cấp ủy, chính quyền triển khai những công việc thiết thực như: Thăm hỏi, tặng quà, hỗ trợ cây giống, vật nuôi. Ngoài giúp đỡ về vật chất, ngày công lao động, các xã đặc biệt quan tâm trao đổi kinh nghiệm, phương thức sản xuất phù hợp với điều kiện từng gia đình, giúp họ có thêm niềm tin, động lực vươn lên. Trong các giải pháp để thực hiện, vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn được đề cao.
Thời điểm này, bà con huyện Lục Ngạn đang tất bật vào mùa thu hoạch cam, bưởi, ổi, táo... Không có nhiều diện tích vườn đồi để trồng cây ăn quả nhưng anh Phạm Văn Hà (SN 1978) ở thôn Bồng 1, xã Thanh Hải vẫn có nguồn thu nhập cao, ổn định từ cây cảnh. Ngôi nhà của gia đình tuy không bề thế như nhiều hộ trong thôn nhưng đó thực sự là "quả ngọt” của bao năm cần cù lao động. Khắp sân, vườn, gần 300 chậu cây cảnh được cắt tỉa, tạo dáng đẹp mắt, nhìn cây nào cũng… ra tiền. "Có được thành qủa này, đời tôi phải cảm ơn bác Miên nhiều lắm”- anh Hà tâm sự. Bác Miên mà anh nhắc đến ở đây là ông Vi Hiền Miên (SN 1940), một đảng viên nghỉ hưu ở cùng thôn. Năm 2014, Đảng ủy xã Thanh Hải có nghị quyết về việc phân công đảng viên giúp đỡ hộ nghèo, mặc dù tuổi cao nhưng ông Miên vẫn xung phong nhận giúp đỡ một hộ. "Tôi tìm hiểu, Hà nghèo một phần do xuất phát điểm thấp, không có việc làm ổn định. Trong một lần thăm vườn cây cảnh, tôi để ý thấy cháu say sưa quan sát, có mắt nhìn đánh giá từng chậu cây rồi góp ý rất đúng. Nhận thấy Hà có năng khiếu làm cây cảnh, tôi định hướng cháu theo nghề này. Hàng ngày Hà đến nhà tôi để được chỉ bảo cách uốn tỉa từng loại”.Ban đầu chưa có cây giống, Hà lầm lũi đạp xe, thường xuyên đi rừng sưu tầm những cây nhỏ mang về, được ông Miên hướng dẫn, dần dà Hà tự tay nhân giống, tạo phôi, cắt tỉa, uốn thế... Sau mấy năm chịu khó học hỏi, hiện anh đã có vườn cây cảnh trị giá nửa tỷ đồng. 4 năm qua, mỗi tháng gia đình thu nhập từ 6-7 triệu đồng.
Thiếu vốn, kinh nghiệm sản xuất là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự nghèo. Năm 2017, khi được phân công giúp đỡ hộ chị Hoàng Thị Méo, đảng viên Lường Văn Tác, Chi bộ thôn Du, xã Đồng Cốc (Lục Ngạn) đã tận tình hướng dẫn chị kỹ thuật trồng dưa chuột, bí xanh- hai cây trồng chủ lực của thôn, chỉ bảo chăm sóc ra sao để đến kỳ thu hoạch bán được giá. Đồng thời hỗ trợ chị một phần tiền mua phân bón. Vụ này qua vụ khác, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp đều đặn, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước giúp làm nhà đại đoàn kết, gia đình chị đã thoát nghèo.
Chi bộ thôn Hồ Lương, xã Bảo Sơn (Lục Nam) có 18 đảng viên, trong đó gần 90% đảng viên là người dân tộc. Hơn 5 năm qua, Chi bộ duy trì đều đặn việc góp "Quỹ tiết kiệm hỗ trợ người khó khăn". Bà Hoàng Thị Bài, Bí thư Chi bộ nói: Năm 2013, khi Đảng ủy xã đề nghị mỗi chi bộ đăng ký một việc học và làm theo Bác, sau khi cân nhắc, Chi ủy chọn việc gây quỹ tiết kiệm. Trên tinh thần đó, mỗi đảng viên đóng góp 5 nghìn đồng/tháng vào quỹ. Cuối năm, từ số tiền này, Chi bộ dùng tặng những hộ hoàn cảnh khó khăn, mỗi suất 300 nghìn đồng.Ông Hoàng Công Bảy, Bí thư Đảng ủy xã Bảo Sơn tâm sự: "Khi về cùng dự sinh hoạt chi bộ thôn Hồ Lương tôi thật sự cảm động. Ngoài đóng đảng phí, mỗi đảng viên còn tự nguyện góp tiền để dành cho người khó khăn. Số tiền tuy nhỏ nhưng thể hiện tinh thần tương thân tương ái, trách nhiệm của người đảng viên với những người yếu thế ở nơi mình cư trú”. Tương tự, 3 năm qua, mỗi đảng viên Chi bộ phóng viên (Đảng bộ Báo Bắc Giang) tự nguyện đóng góp từ 25 đến 50 nghìn đồng/tháng để giúp đỡ người nghèo.
Tại nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị, trường học trên địa bàn tỉnh nhiều năm qua đã có những hoạt động thiết thực giúp đỡ hộ nghèo, trong đó cán bộ, đảng viên, người đứng đầu luôn nêu gương. Các hình thức hỗ trợ rất đa dạng như: Tiết kiệm tiền, trích ngày công lao động để cùng góp vào tặng quà, tặng nhà, tín chấp vay vốn ưu đãi, đặc biệt là tổ chức dạy nghề, tập huấn kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, cung cấp cây, con giống...
Đảng viên đi trước, làng nước theo sau
Cán bộ, đảng viên giúp người nghèo không chỉ thể hiện việc nêu gương mà còn tạo ra sự lan tỏa, kết nối những tấm lòng hảo tâm của các tổ chức, cá nhân khác cùng góp sức giảm nghèo. Bà Phạm Thị Nhuần, Chi hội trưởng phụ nữ Tổ dân phố Á Lữ, phường Trần Phú (TP Bắc Giang) là một ví dụ.Gia đình bà chuyên phân phối sản phẩm hương liệu cho hai công ty, dù công việc kinh doanh bận rộn nhưng bà vẫn thu xếp thời gian đi làm từ thiện. Điều đáng quý, không chỉ bản thân, bà còn vận động các thành viên trong gia đình cùng làm. Hiện, người con dâu cả tích cực tham gia tổ nấu "Nồi cháo nhân đạo" ở Bệnh viện Ung bướu Bắc Giang. Chồng cũng là người hỗ trợ đắc lực hoạt động thiện nguyện. Gia đình 13 năm liên tục được Ủy ban MTTQ TP Bắc Giang tặng Chứng nhận "Tấm lòng vàng".Khi chúng tôi đến, vợ chồng bà cùng chị em khu phố đang tất bật đóng gói gần 150 suất quà chuẩn bị cho chuyến từ thiện ở một huyện miền núi. Bà Nhuần chia sẻ: Khi thấy các đảng viên ở khu phố nêu gương trong đóng góp ủng hộ quỹ nhân đạo, từ thiện tôi cũng làm theo. Hằng năm, gia đình tôi đều trích một phần lợi nhuận từ việc kinh doanh để cùng Chi hội phụ nữ làm từ thiện".
Được biết, là người đứng đầu Chi hội phụ nữ tổ dân phố, bà Nhuần đã vận động các thành viên trong chi hội giúp đỡ những người hoàn cảnh khó khăn. Cháu Trịnh Hải Nam ở cùng khu phố sống cùng người ông bị khuyết tật, mẹ sức khỏe không bình thường, gia đình thuộc diện hộ nghèo. Thương cảm hoàn cảnh của cháu, từ năm 2012, Chi hội đã nhận đỡ đầu, hỗ trợ cháu 500 nghìn đồng/tháng. Số tiền do các hội viên tiết kiệm hàng ngày thông qua "Con lợn tiết kiệm".
Cùng với sự hỗ trợ của xã hội thì ở nhiều nơi cũng có từng tổ chức đoàn thể, từng nhóm người và mỗi người cũng có cách hỗ trợ trực tiếp đến những địa chỉ cụ thể. Bà Giáp Thị Tám, thôn Tân Sơn 4, xã Tân Dĩnh (Lạng Giang) hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuổi cao lại mắc bệnh viêm đa khớp phải thường xuyên đi viện điều trị, nhà ở cũng xuống cấp.Trước hoàn cảnh đó, cấp ủy thôn Tân Sơn đã vận động một số doanh nghiệp đóng trên địa bàn giúp đỡ. Sau hơn 100 ngày thi công, căn nhà ba gian lợp ngói, nền lát gạch hoa giá trị hơn 135 triệu đồng hoàn thành vào đầu tháng 10 vừa qua. Sau đó, bà Tám còn được các nhà hảo tâm trong, ngoài tỉnh hỗ trợ vật dụng, đồ dùng sinh hoạt, con giống để chăn nuôi.
Hay như khu vườn tạp trước đây của gia đình bà Nguyễn Thị Tám, thôn Ba Làng, xã Quế Nham (Tân Yên) được Hội Nông dân xã hỗ trợ kinh phí mua và trồng 40 cây bưởi da xanh. Nhờ thường xuyên được hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc nên cây trồng sinh trưởng tốt. Bà Tám là hộ đặc biệt khó khăn nhiều năm liền, vì vậy được hỗ trợ vườn cây này cũng là hướng để gia đình bà phát triển kinh tế, có cơ hội thoát nghèo. Cũng ở xã Quế Nham (Tân Yên), cùng cảnh ngộ với bà Tám còn có bà Hà Thị Đại, thôn Núi bị bệnh tim nên cuộc sống chật vật. Đầu tháng 4-2018, Hội Nông dân xã huy động hỗ trợ trồng 90 cây bưởi Diễn, bưởi da xanh, hồng xiêm. Chia sẻ về cách làm này, ông Hà Văn Cư, Chủ tịch Hội Nông dân xã Quế Nham bày tỏ: Chúng tôi nhận thấy, để hộ nghèo có cơ hội vươn lên không gì bằng giúp họ chiếc "cần câu” như giống, vốn... phù hợp điều kiện cụ thể; đồng thời với chiếc "cần câu” đó hướng dẫn họ cách "câu cá” thế nào sao cho hiệu quả.
Với suy nghĩ đó, tôi đã bàn với Ban lãnh đạo Hội và mạnh dạn đề xuất với Đảng ủy xã thực hiện mô hình "Vườn cây giảm nghèo". Quá trình triển khai, Hội luôn phát huy vai trò nòng cốt của các đảng viên tại các chi hội. Bởi vậy, không chỉ hỗ trợ cây giống, ngày công trồng, hội viên ở các thôn còn thay nhau đến chăm sóc vườn cây những khi hai hộ này có việc bận hoặc đi viện dài ngày.
KỲ II: KHI CHI BỘ NẮM LÀNG, ĐẢNG VIÊN SÁT HỘ
"Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội” là một trong những nhiệm vụ của người đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng.
Rõ việc, rõ địa chỉ
Chưa có con số thống kê về các mô hình đảng viên giúp đỡ người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, nhưng các cấp ủy đều quán triệt cán bộ, đảng viên phải sâu sát cơ sở, quan tâm đến đời sống người dân. Như vậy, đảng viên giúp đỡ người nghèo cũng là một cách để Đảng với dân được xích lại gần nhau hơn. Đảng viên giúp hộ nghèo không chỉ mang lại sinh kế cho người nghèo, giúp họ có cơ hội vươn lên, mà mỗi đảng viên khi được phân công nhiệm vụ gì họ sẽ đeo bám nhiệm vụ ấy, cảm thấy mình được cấp ủy, chi bộ quan tâm nên có trách nhiệm hơn với chi bộ, với nhân dân và với vai trò đảng viên của mình.Ông Vũ Văn Sáng, Bí thư Đảng ủy xã Thanh Hải (Lục Ngạn) cho rằng: Cũng có đảng viên khi không được phân công nhiệm vụ, họ vẫn giúp đỡ người nghèo bằng nhiều cách trong điều kiện, khả năng cho phép. Nhưng khi được phân công họ thấy có trách nhiệm hơn, quyết tâm hơn, gần gũi hơn với quần chúng. Trên cơ sở phân công nhiệm vụ, chi bộ cũng có cái để kiểm điểm hàng tháng, cuối năm, tạo điều kiện để đảng viên tiếp tục phấn đấu, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Còn hơn 70 hộ nghèo là trăn trở lớn của cấp ủy, chính quyền xã Tân An (Yên Dũng). Đảng ủy xã nhìn nhận, để giảm tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, hạt nhân chủ yếu chính là từng chi bộ và trách nhiệm của mỗi đảng viên. Với phương châm "Chi bộ nắm làng, đảng viên sát hộ", Đảng ủy phân công các đồng chí thường vụ phụ trách cụm, chi bộ "nắm” làng, mỗi đảng viên theo sát từng nhóm hộ. Từ sự phân công ấy, chi bộ ngoài nhiệm vụ chính là bảo đảm công tác chỉ đạo, giữ vững sự ổn định tại xóm, làng còn phải sát sao trong công tác giảm nghèo ở địa phương. Đồng chí Nguyễn Duy Mão, Bí thư Chi bộ thôn Kim Xuyên chia sẻ: Nghị quyết của Chi bộ đề ra mỗi năm phấn đấu giảm 1 hộ nghèo. Để hoàn thành, 15 đảng viên đang sinh hoạt tại địa phương đều được Chi bộ phân công nhiệm vụ. Mỗi đảng viên phụ trách 7-8 hộ. Ngoài nắm tình hình khu dân cư, đảng viên còn quan tâm giúp đỡ những hộ khó khăn. Tháng 10 vừa qua, thông qua nhiều nguồn hỗ trợ và sự giúp đỡ về ngày công, thôn đã xóa được một nhà tạm cho hộ ông Trịnh Văn Nhàn.
Thực tiễn cho thấy, ở đâu cấp ủy, chính quyền biết phát huy vai trò nêu gương, tinh thần trách nhiệm, tương thân, tương ái của đảng viên thì nơi đó cuộc sống của người nghèo bớt khó khăn hơn. Đồng chí Dương Đức Thảo, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tân Yên cho biết: Đảng bộ huyện có hơn 8 nghìn đảng viên. Xác định tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên có vai trò rất quan trọng trong công tác giảm nghèo nên Đảng bộ huyện luôn coi trọng củng cố tổ chức đảng với nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.Cùng với triển khai các chương trình, dự án, Huyện uỷ chỉ đạo cấp uỷ các xã, thị trấn đưa chỉ tiêu giảm nghèo vào đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Bằng nhiều cách làm như: Hỗ trợ đào tạo nghề; tạo điều kiện vay vốn ưu đãi để phát triển kinh tế, tặng nhà đoàn kết, tình nghĩa... đến nay hộ nghèo trên địa bàn huyện chỉ còn dưới 5%.
Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, cấp ủy khuyến khích các cá nhân, đơn vị đăng ký nhiều mô hình, việc tốt giúp người nghèo. Điển hình như "Quỹ tiết kiệm làm theo Bác" của các cơ quan, đơn vị, MTTQ và các đoàn thể của huyện.Từ cuối năm 2017 đến nay, đã thành thông lệ, sau lễ chào cờ đầu tháng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động của Huyện ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội huyện dành một khoản tiền đưa vào thùng quỹ nhân đạo đặt tại Văn phòng Huyện ủy. Từ mô hình này đã tiết kiệm hơn 200 triệu đồng giúp đỡ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.
Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, chỉ tiêu giảm nghèo toàn tỉnh đã vượt kế hoạch. Bình quân mỗi năm giảm hơn 9 nghìn hộ nghèo, tương đương 2,2%, vượt 0,2% so với mục tiêu đề ra.
Kinh nghiệm và giải pháp
Khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp thì kinh nghiệm thực hiện thành công hỗ trợ hộ nghèo ở huyện Hiệp Hòa trước tiên là đẩy mạnh tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, thu hút cộng đồng tích cực tham gia. Đặc biệt, để hộ dân có thu nhập ổn định, cấp ủy các cấp chú trọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Bằng nhiều hình thức như tự tổ chức, liên kết… mỗi năm huyện có gần 3 nghìn lượt người (trong đó gần 70% là hộ nghèo) được đào tạo nghề, giải quyết việc làm.Anh Nguyễn Hoàng Anh, thôn Quyết Thịnh, xã Đức Thắng, công nhân Công ty TNHH một thành viên VietPan Pacific World cho biết, được địa phương hỗ trợ học nghề may lại giới thiệu việc làm nên từ năm 2016, anh có việc làm ổn định với mức lương hơn 6 triệu đồng/tháng. Chị gái anh cũng được hỗ trợ học nghề may, đang làm tại Công ty cổ phần May xuất khẩu Hà Phong, thu nhập bình quân gần 12 triệu đồng/tháng. Gia đình anh giờ đã thoát nghèo.
Theo ông Ngô Minh Đoàn, Phó Chủ tịch UBND huyện Lạng Giang, từ thực tế chỉ đạo công tác giảm nghèo cho thấy có một bộ phận hộ nghèo vì thiếu các điều kiện cơ bản mà không được hỗ trợ thì họ khó có thể tự xoay xở được. Ví dụ những gia đình toàn người già yếu, không có sức lao động hoặc nhiều người tàn tật hay mắc bệnh mạn tính… Với những hộ này phải giúp họ trực tiếp mới thoát được nghèo.Sau khi tham mưu với Thường trực Huyện ủy, chủ trương hỗ trợ trực tiếp từng nhóm hộ được đưa ra. Quá trình thực hiện, yêu cầu các tổ chức đảng phải sát sao lãnh đạo, nhất là trong phân công nhiệm vụ cho đảng viên cùng có trách nhiệm với cộng đồng dân cư; việc hỗ trợ cũng cần linh hoạt. Đơn cử như hỗ trợ nhà ở, huyện huy động mọi nguồn lực, ngoài tiền mặt còn ngày công, vật liệu xây dựng… Vì thế việc triển khai xây dựng nhà ở nhanh gọn, thuận lợi hơn. Mỗi năm, huyện hỗ trợ từ 45-50 nhà ở cho hộ nghèo. Tùy hoàn cảnh, điều kiện, có gia đình được giúp một phần, có hộ được giúp toàn bộ.
Còn tại huyện miền núi Yên Thế, Ban Thường vụ Huyện ủy yêu cầu các chi, đảng bộ đẩy mạnh tuyên truyền, nêu gương tập thể, cá nhân tiêu biểu có nhiều việc tốt, nhất là trong giúp đỡ người nghèo. Định kỳ ngày 5 hằng tháng gửi báo cáo, bài viết về gương điển hình để các cơ quan chuyên môn tuyên truyền nhân rộng.
Đồng chí Nông Văn Tâm, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy cho hay: Ngoài sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp trên, đảng ủy cơ sở phải chủ động gắn kiểm tra của tổ chức đảng với tự kiểm tra của quần chúng. Ví như kiểm tra sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong vận động gia đình, lối xóm tham gia phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Kiểm tra việc tiếp cận các chính sách, dịch vụ xã hội trợ giúp cho người nghèo vươn lên. Trong quá trình thực hiện, cấp ủy, tổ chức đảng phải chú ý những nhân tố mới, mô hình mới để động viên, nhân rộng.
Không ai muốn rơi vào hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói, thua thiệt cả về vật chất cũng như tinh thần. Song thực tế, vẫn còn nhiều người có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng và người thân, không quyết tâm vượt qua hoàn cảnh để nâng dần chất lượng cuộc sống của gia đình và bản thân. Do đó, bên cạnh trợ giúp các điều kiện về cuộc sống, sản xuất, cần thiết phải có biện pháp thích hợp khơi dậy lòng tự trọng của bộ phận này; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để họ nâng cao nhận thức, trách nhiệm, không thể cứ chờ người khác hỗ trợ, cho không.
Có thể thấy, để làm tốt công tác giảm nghèo, phát huy được vai trò của mỗi cán bộ, đảng viên, các cấp ủy cần làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên đối với công tác giảm nghèo, từ đó tạo sự thống nhất cao về quan điểm. Chủ trương, nghị quyết giảm nghèo của cấp ủy phải được thực hiện nghiêm túc, trong đó giao chỉ tiêu tới từng thôn, tổ dân phố. Bên cạnh đó phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể và từng cán bộ, đảng viên trong hỗ trợ người nghèo.
DẤU XƯA TÂY YÊN TỬ
Giải B, năm 2018
Nhóm tác giả: Đức Đạt, Thế Phương,
Thanh Hoàn, Đào An, Thanh Lịch
Thể loại: Ký sự truyền hình
Giới thiệu khái quát về tác phẩm:
P |
hía sườn Tây Yên Tử thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang là con đường hoằng dương Phật pháp của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Trải qua quá trình phát triển của Thiền phái Trúc Lâm, một loạt các công trình chùa mang dấu ấn thời Trần được xây dựng trên địa bàn rộng lớn trải dài từ Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn tới Sơn Động. Hiện nay, Tây Yên Tử có 135 di tích, trong đó 26 điểm được xếp hạng. Các di tích này bao gồm hàng loạt các chùa liên quan chặt chẽ đến quá trình hình thành và hưng thịnh của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đa số chùa cổ ở đây do tổ đệ nhị Pháp Loa xây dựng và thường nằm trên đỉnh các núi cao, xa dân cư. Nhiều di tích bị xuống cấp đã được trùng tu, phát huy giá trị. Nhưng cũng không ít công trình hiện chỉ còn dấu tích, bị chôn vùi dưới lòng đất, cất giấu nhiều tài liệu quý rất cần được nghiên cứu, phục dựng.Ký sự định hình hệ thống chùa cổ trên các núi cao thuộc Tây Yên Tử, cho thấy rõ sự phong phú, phản ánh đặc điểm văn hóa, vật liệu, kiến trúc, nghệ thuật ở các thời kỳ lịch sử lâu dài của di tích từ thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn cho đến nay. Cùng với các chùa cổ, tác phẩm còn đề cập đến những ngọn núi mang tên nhà Phật, những thắng tích hùng vĩ.
Mục tiêu phim hướng đến là khắc họa bức tranh tổng thể hệ thống chùa cổ được xây dựng từ thời Trần, đặc biệt là những ngôi chùa còn lại những phế tích, để hiểu hơn về sự dịch chuyển vị trí các chùa từ núi cao xuống đồng bằng và lịch sử hình thành, hưng thịnh của Phật giáo Trúc Lâm, góp phần tôn tạo, phục dựng, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích, cũng như giới thiệu những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của Tây Yên Tử.
Hình thức thể hiện: các tập được bố trí theo tuyến địa lí (Yên Dũng – Lục Nam – Lục Ngạn – Sơn Động). Có MC và nhân vật cụ thể dẫn chuyện. Phim có sự tham gia của những nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, những người có hiểu biết về những ngôi chùa bên sườn Tây Yên Tử.
Tập 1: DẤU XƯA CHÙA CỔ VEN SÔNG LỤC
Phía sườn Tây Yên Tử thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang là con đường hoằng dương Phật pháp của Phật hoàng Trần Nhân Tông… Cách đây khoảng 20 năm, các nhà nghiên cứu, khảo cổ học đã điều tra, điền dã, khai quật và thu thập nhiều tài liệu, hiện vật chứng minh quy mô, sự hưng thịnh của Phật giáo thế kỷ XI đến XIV tại Tây Yên Tử. Trải qua quá trình phát triển của Thiền phái Trúc Lâm, một loạt các công trình chùa mang dấu ấn thời Lý - Trần được xây dựng trên địa bàn rộng lớn trải dài từ Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn tới Sơn Động. Hiện nay, Tây Yên Tử có 135 di tích, trong đó có hàng chục di tích đã được xếp hạng. Ngoài ra là một hệ thống các ngôi chùa cổ hiện chỉ còn là phế tích trên các dãy núi cao còn ẩn chứa nhiều bí ẩn, có liên quan chặt chẽ đến quá trình hình thành và hưng thịnh của thiền phái Trúc Lâm.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
(Yên Tử là nơi hội tụ của 2 dòng thiền miền Nam và miền Bắc nên phật giáo ở đây phát triển mạnh…)
Chùa Vĩnh Nghiêm ở xã Trí Yên, huyện Yên Dũng là chốn tổ của dòng thiền Trúc Lâm... Đây là trung tâm Phật giáo lớn. Kinh đô Phật giáo Trúc Lâm đóng ở núi Yên Tử, còn chùa Vĩnh Nghiêm với vai trò là nơi đào luyện tăng ni của Thiền phái trong cả nước. Thiền phái Trúc Lâm ra đời lấy phương pháp tu hành thiền tâm là chính, giáo lý nằm trong sách "Khóa hư lục” và bài kệ "Cư Trần lạc đạo”của Trần Nhân Tông, với tư tưởng: Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên/Khát uống, đói ăn, mệt ngủ liền/Báu sẵn trong nhà, đừng kiếm nữa/Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền…
Từ chốn tổ Vĩnh Nghiêm, Phật giáo Trúc Lâm được hoằng dương rộng rãi, hưng thịnh và trở thành quốc giáo khi đó. Chính vì vậy, ở Phía Tây Yên Tử trên đất Bắc Giang có rất nhiều chùa được xây dựng. Các chùa này thường nằm trên đỉnh các núi cao, xa dân cư, rồi sau đó dịch chuyển dần xuống làng hoặc gần dòng sông Lục.
PV: Ông Nguyễn Đình Bưu, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Những dấu xưa, tích cũ cứ thôi thúc chúng tôi tìm hiểu về mảnh đất Tây Yên Tử… Từ chùa Vĩnh Nghiêm, đoàn làm phim bắt đầu hành trình ngược dòng sông Lục theo sườn Tây Yên Tử. Vào mùa đông, sông Lục Nam trở nên hiền hòa đã cho thấy một vẻ đẹp dịu dàng khác hẳn với vài chục năm về trước, khi lũ dữ đã cuốn phăng những ngôi chùa được dựng bên cạnh sông…
Cách chùa Vĩnh Nghiêm không xa có một ngôi chùa vừa được nhân dân thôn Cổ Mân, xã Yên Sơn, huyện Lục Nam xây dựng trên một vị trí rất đẹp thuộc dãy núi Cô Tiên. Chùa tọa lạc trên một quả đồi, cạnh nhánh đường 293 dẫn vào chùa Vĩnh Nghiêm hướng ra sông Lục. Ngay bên bờ sông, nơi ngôi chùa mới hướng ra, gần 50 năm về trước có một ngôi chùa đã từng tọa lạc. Theo người dân ở thôn Cổ Mân, trước kia chùa Cổ Mân ở ngay cạnh sông Lục, cảnh trí nên thơ và rất hữu tình. Nay vị trí đó là bãi cỏ và lò gạch cũ, dấu tích gần như không còn. Nguyên nhân là do sự giận giữ của thiên nhiên gây ra.
PV người dân
Hàng trăm năm nay, tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm đã thấm đẫm vào tiềm thức người dân nơi đây. Bởi vậy, chùa trôi nhưng tư tưởng thiền định vẫn còn nguyên. Bởi vậy, nhân dân đã góp tiền của xây mới ngôi chùa ở vị trí an toàn hơn, đẹp đẽ hơn.
PV người dân
Xã Yên Sơn, xưa đã trải qua những chặng đường đấu tranh liên tục chống chọi với thiên tai, giặc giã. Người dân trong vùng vẫn truyền tụng câu ca rằng:"Cổ Mân chiến địa vùi giặc Pháp, Yên Sơn muôn thủa đất anh hùng”.
Cách đây không xa, cuộc sống vùng chiêm trũng Yên Sơn rất khó khăn bởi lụt lội, thất bát triền miên. Từ khi có đê chống úng, lại có con đường 293 chạy qua, đời sống của người dân Yên Sơn đã được cải thiện rất nhiều. Đây là vùng đất giáp ranh với chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Ngược sông sông Lục, theo bờ đê là tới một ngôi cổ tự khác. Đó là chùa Phúc Nghiêm. Chùa nằm ở thôn Chản Làng, còn có tên chữ là Khê Khẩu thôn. Dưới tiết trời thâm trầm của mùa đông, mảnh đất này vẫn toát lên vẻ đẹp vốn có của làng ven sông. Trong không gian thanh bình nơi làng Chản, chùa Phúc Nghiêm tự hiện lên đày mới mẻ.
Chùa Chản nổi bật tọa lạc trên một thế đất cao, phía trước là đồng nước mênh mông, có ngòi Khê Khẩu bao bọc, cùng với dòng sông Lục huyền thoại tạo nên phong cảnh sơn thủy hữu tình vừa yên bình nhưng lại vừa tôn vẻ hiện hữu linh thiêng của ngôi chùa cổ. Bởi vậy nơi này mới được gọi là "phong nguyệt vô biên”.
Chùa Chản được khởi dựng vào khoảng thế kỷ XIV, XV, tức là thời gian cuối triều Trần, đầu thời Lê sơ. Trải qua năm, sáu trăm năm lịch sử, công trình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nên có những thay đổi so với kiểu dáng kiến trúc ban đầu. Kiến trúc hiện nay của Phúc Nghiêm tự mang đậm phong cách kiến trúc thời Nguyễn với các hạng mục tiêu biểu như tòa tam bảo, nhà tổ, nhà tăng, tháp cổ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng vào thế kỷ XV, chùa Phúc Nghiêm đã có bố cục kiến trúc hoàn chỉnh kiểu "nội công, ngoại quốc”, nhưng vì hai dãy hành lang và tam quan đã bị thời gian hủy hoại nên công trình còn lại theo bố cục chữ "công”.
Có thể nói, Phúc Nghiêm tự là bảo tàng lưu giữ những di vật chứa đựng những giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hóa của vùng miền. Đặc biệt, hệ thống tượng Phật ở đây được sơn son thiếp vàng rực rỡ có giá trị về tâm linh, tôn giáo, về nghệ thuật tạo tác rất đa dạng. Những pho tượng này đều có diện mạo phản ánh tập trung tâm thế và cốt cách riêng, xứng danh là những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật. Hiện nay, công trình kiến trúc cùng hệ thống tượng Phật cổ, đồ thờ tự vẫn được địa phương bảo quản chu đáo.
Chùa Phúc Nghiêm mới được xây dựng cho thấy nhiều nét mới. Nhưng đó chỉ là dáng vẻ bề ngoài, thực tế quang cảnh nơi đây phảng phất những nét trầm mặc, cổ kính và tĩnh lặng...Những người cao tuổi ở đây cho biết, chùa Phúc Nghiêm từng là nơi in ấn nhiều kinh sách nhà phật ở thế kỷ 18, 19. Do rất gần với chùa Vĩnh Nghiêm nên trước kia ở ngôi chùa này có rất nhiều sư về đây tu tập học thiền. Dấu tích còn lại cũng cho biết rõ nhận định đó.
PV người dân
Dù trải qua những biến thiên của lịch sử, nhưng hiện nay chùa vẫn còn lưu giữ được một quả chuông đồng thời Tây Sơn.
Nói về chuông cổ trao đổi với người cao tuổi về chuông cổ
Chuông cao chừng 100 cm, chu vi miệng là 160 cm, quai chuông được đúc dáng đôi rồng chung thân, miệng rồng phun châu nhả ngọc trông nghiêm nghị mà hiền từ, không dữ tợn như rồng thời Nguyễn sau này. Trên bốn múi chuông đúc nổi bốn chữ Hán cho biết tên chuông "Phúc Nghiêm tự chung”, nghĩa là chuông chùa Phúc Nghiêm. Cuối bài văn trên chuông cho biết thời gian và ý nghĩa đúc quả chuông là vào đầu tháng Ba niên hiệu Cảnh Thịnh thứ tám, tức là năm 1800 và ghi tên một số tập thể, cá nhân hưng công đúc chuông. Văn chuông do nhà sư trụ trì chùa Phúc Nghiêm khi ấy soạn. Cuối cùng có bài minh dài 18 câu, viết theo thể kệ 4 chữ ngợi ca cảnh trí thiền tự Phúc Nghiêm và sự thiện tâm tế độ làm cho quốc thái dân an của chư phật từ bi.
PV người cao tuổi
Những dấu xưa của ngôi chùa cổ không chỉ hiền hiện trong tư tưởng phật giáo Trúc Lâm của người dân Yên Sơn mà những dấu xưa ẩn trong vẻ mới lạ của ngôi chùa vẫn đang vang xa tư tưởng thiền tâm Hòa quan đồng trần của Phật giáo Trúc Lâm trên mảnh đất này…
Tập tiếp theo của kí sự Dấu xưa Tây Yên Tử là những cảm nhận Âm vang kí ức cổ tự trên mảnh đất giàu văn hóa Khám Lạng, huyện Lục Nam/.
Tập 2: ÂM VANG KÍ ỨC CỔ TỰ
Đường 293, hay đường Tây Yên Tử, dân gian quen gọi là con đường tâm linh. Cái tên được gọi theo đúng tâm lí người dân, bởi con đường này gắn kết rất nhiều các công trình văn hóa tâm linh, tín ngưỡng phía Tây Yên Tử từ Yên Dũng đến Sơn Động. Từ xã Yên Sơn ngược đường 293 là tới xã Khám Lạng, huyện Lục Nam. Nhờ có con đường này mà ngôi đền, chùa và động Hang Non đã được nhiều người biết tới. Dù đã rất nhiều lần tới đây, nhưng mỗi khi nhắc đến động Hang Non lần nào chúng tôi cũng cảm thấy hứng thú. Một phần bởi cảnh trí thiên nhiên lạ, ở Bắc Giang phần lớn là núi đất lại có một hang động rộng và đẹp; một phần cũng bởi sự hội tụ văn hóa tâm linh ở mảnh đất này…
Động Hang Non là nơi phát tích câu chuyện ông Cộc ông Dài, khởi thủy của tục thờ mẫu ở vùng Khám Lạng. Đây là một động đẹp, rộng, nằm ở lưng chừng dãy núi Non. Động có nhiều hang dài và sâu hướng lên trên và cắm xuống dưới, nhân dân thường gọi là đường lên trời và đướng xuống âm phủ. Đến nay, những hang này vẫn chưa được khám phá nên chưa ai biết hang sâu chừng nào. Trong đó có 1 hang sâu, dài mà người dân ở đây thường kể rằng thả quả bòng từ đây có thể trôi đến vực Dẫm. Đó cũng là cách nhân dân Khám Lạng xưa kia phân định ranh giới với các xã lân cận. Nếu về Hang Non vào dịp lễ hội đầu xuân, mới thấy hét được cái hay, cái lý thú của sự kết hợp giữa đền, chùa và động trong cùng 1 di tích.
Khám Lạng là xã nằm cạnh sông Lục Nam, núi Huyền Đinh, giống như bức tranh sơn thủy hữu tình từ ngàn xưa để lại. Xưa Khám Lạng có tên là Khám Lãng thuộc tổng Bắc Lũng, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Thương. Khám Lạng là xã có 6 khám 3 non. Đây cũng là tên các làng trong xã. Trong những làng cổ ấy có các ngôi cổ tự từ thời Lý - Trần.
Chùa Khám Lạng tọa lac trên một gò đồi hình con Quy, ở thôn Non Chùa, có sông Lục, núi Huyền ở viền ranh giới phía Đông, sông Cầu Lồ chảy dọc phía Tây, phía Nam kế vùng quần thể di tích Côn Sơn Kiếp Bạc, phía Bắc lại có đền Hang Non cao phong đột khởi. Đây là vị trí đắc địa người xưa đã chọn để dựng chùa.
Theo người dân nơi đây, chùa Khám Lạng đã có gần 10 đời sư Tổ về trụ trì. Các sư đã về chăm lo hương khói, tín ngưỡng cho nhân dân và hướng cho tín đồ, phật tử đi đúng đạo pháp dân tộc. Bởi vậy xưa nay, đây luôn là trung tập Phật giáo trong vùng. Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi đã bị chiến tranh và thời gian phá huỷ, làm mất đi phần nào cảnh quan, kiến trúc cổ xưa nhưng vẫn còn giữ được nét cổ kính của bao đời để lại. Tọa lạc giữa vùng đất đang ngày càng chuyển mình mạnh mẽ, không gian chùa Khám Lạng vẫn cho những cảm nhận nét cổ kính trang nghiêm nơi phật tự. Theo văn bia ghi lại, chùa Khám Lạng là 1 trong 2 ngôi chùa của nước ta có toà sen đá trạm trổ rồng, hoa văn cổ kính mang giá trị thẩm mỹ cao của thời nhà Lý, càng tôn tôn thêm vẻ đẹp vĩnh hằng và sức trường tồn của di tích. Bởi vậy mới có câu: Mái chùa che chở hồn dân tộc /Ánh sáng muôn đời của tổ tông.
PV: Ông Nguyễn Xuân Cần, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Xưa nay, nhiều nhà nghiên cứu những tưởng dòng thiền Trúc Lâm ít để lại hiện vật cho hậu thế, nhưng gần đây, với sự phát hiện các văn vật đá ở chùa Khám Lạng, khoảng trống vắng về tư tưởng nghệ thuật điêu khắc dân gian trong kiến trúc Phật giáo thời kỳ này đã được bổ khuyết. Trong đó, hiện vật có giá trị tiêu biểu nhất là hương án đá xanh tọa lạc ở chính điện chùa Khám Lạng, được tạo tác thời Lê sơ (1432), sau khi Lê Lợi đánh tân quân minh (1428). Đây là một loại hình hiện vật mang tính đặc trưng có ở các ngôi chùa thờ Phật dưới thời Trần và tiếp tục được phát huy dưới thời Lê sơ - Mạc.
Nhìn tổng thể, Hương án đá chùa Khám Lạng được các nghệ nhân dân gian chạm khắc cầu kỳ và cơ bản tôn trọng luật đăng đối giữa mặt trước, mặt sau và hồi trái, hồi phải theo phong cách truyền thống. Hương án được chia làm 3 tầng:Mặt hương án, thân hương án và đế hương án. Ba tầng liên kết với nhau tạo thành một đài sen hoàn chỉnh.
Hương án hoa sen chùa Khám Lạng là hiện vật gốc độc bản chưa có ở nơi khác trong tỉnh và hiếm thấy ở Việt Nam. Ngoài yếu tố tạo hình mỹ thuật các đề tài chạm khắc trên hương án đá chùa Khám Lạng còn chứa đựng nhiều thông điệp lịch sử. Chạm khắc hình hoa sen, hoa cúc mang biểu trưng sức mạnh hùng trí của nhà Phật, các đề tài hình rồng mang biểu trưng của vương quyền, các hình văn hình sóng nước mang biểu trưng của văn hóa sông nước văn hóa miền biển. Qua đó có thể thấy sự dung hòa giao thoa văn hóa vùng miền và khẳng định sự vững mạnh trường tồn của Phật giáo và Nho giáo ở giai đoạn này. Với những giá trị tiêu biểu đó, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định công nhận hương án chùa Khám Lạng là bảo vật Quốc gia.
PV: Ông Nguyễn Xuân Cần, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Tiếp tục hành trình tìm về với dấu xưa cổ tự trên đất Khám Lạng, chúng tôi tới thôn Hòa Nội. Đây là quê hương của danh nhân có tiếng trong vùng, Nguyễn Liên. Sách Lục Nam địa chí viết: Nguyễn Liên, triều Vua Lê Cảnh Hưng là học sinh Quốc Tử Giám, thi đỗ tam trường, làm quan đến chức Huấn đạo huyện Trường An, phủ Trường An…
Trên 1 quả đồi ở thôn Hòa Nội có chùa Cao. Đây là một địa điểm thú vị, bởi từ những dấu xưa của ngôi chùa này cho biết những thông tin giá trị từ lịch sử. Chùa Cao có tên chữ là Hưng Quang Tự. Chùa được xây dựng quy mô vào thời Lý - Trần và trở thành 1 trong những trung tâm Phật giáo phía Tây Yên Tử. Khi xưa nơi đây hoang vắng, rậm rạp nên còn có tên là Rừng Chùa. Chùa Cao trở thành phế tích từ thế kỉ 19.
Khi chúng tôi tới, ngôi chùa đang được xây dựng lại trên nền chùa cũ. Dẫu vậy, những dấu xưa như: hiện vật cổ, gạch, ngói, chân tảng cột chùa vẫn còn, được phát lộ khi người dân canh tác. Nhiều hiện vật cho thấy giống với những hiện vật khai quật được ở hoàng thành Thăng Long. Bởi vậy, UBND tỉnh Bắc Giang đã xếp hạng chùa Cao là di tích khảo cổ học.
Những phát hiện khảo cổ học tại chùa Cao cho thấy từ thời Lý, Lục Nam đã là một trong những trung tâm Phật giáo của nước Đại Việt. Những danh lam cổ tự với sự đầu tư xây dựng của vương triều Lý ở sườn Tây Yên Tử là cơ sở, mạch nguồn để các thiền sư thời Trần kế tục phát triển, mở mang sơn phận thành kinh đô Phật giáo Đại Việt, mà dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử được xem như cốt cách của Phật giáo Đại Việt thời bấy giờ. Và với những di vật còn sót lại sau hàng trăm năm, thậm chí là gần nghìn năm, chùa Cao cùng với chùa Khám Lạng chắc chắn có vai trò quan trọng trong sự hưng thịnh của Phật giáo Trúc Lâm khi đó…
Trong tập tiếp theo là hành trình lên đỉnh núi Mã Yên khám phá đại cổ tự Yên Mã./.
Tập 3: DANH LAM CỔ TỰ MÃ YÊN
Tiếp tục cuộc hành trình, từ xã Khám Lạng, chúng tôi về xã Bắc Lũng, huyện Lục Nam để tới chùa Mã Yên. Được biết mới đây, Bảo tàng Bắc Giang và Viện Khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành khai quật khảo cổ ở ngôi chùa này và cho thấy nhiều thú vị. Điều đó càng thôi thúc các thành viên trong đoàn sớm đi tìm hiểu…
Xã Bắc Lũng vừa mới kỉ niệm 60 năm thành lập và công bố Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Nhờ vậy, xã được khoác lên mình chiếc áo mới.Riêng 3 năm gần đây, toàn xã đã đầu tư 7,5 tỷ đồng xây dựng cơ sở vật chất nên hiện nay trụ sở UBND xã, nhà văn hóa của 8/8 thôn được xây dựng khang trang. Hệ thống giao thông trục xã được cứng hóa đạt 100%, đường trục, đường ngõ được cứng hóa trên 90%. Đó là những tiền đề quan trọng để xã bứt phá vươn lên trong tương lai.
Đi cùng chúng tôi lên núi Mã Yên thăm chùa Mã Yên có anh Nguyễn Duy Chiến, công chức văn hóa xã. Anh cho biết: gió bắc mới về, tuy trời rét đậm rét hại nhưng leo núi sẽ thuận lợi hơn, bởi không lo bị trơn trượt. Để lên được đỉnh núi Mã Yên phải đi bộ mất gần 2 tiếng trèo đèo, băng rừng. Nhiều người dân ở đây không khỏi nuối tiếc khi nhắc đến chùa Mã Yên, một ngôi đại cổ tự trong quá khứ giờ chỉ còn phế tích hoang vu giữ đại ngàn. Bởi, họ đã gắn bó với những ngọn núi, những cung đèo này từ khi biết đi rừng làm nương.
Trao đổi với người dân trên đường trèo đèo
Khi đã leo được một đoạn dài và khá mệt, cùng thời điểm đó là đến Tam Quan, nơi có một khoảng trống rộng, lộng gió, mát mẻ. Đây là nơi người dân đi rừng hay nghỉ ngơi, cũng là nơi được cho là xưa kia các phật tử hoặc các nhà tu hành nghỉ ngơi trước khi tiếp tục leo núi lên chùa. Từ đỉnh Mã Yên, có thể phóng tầm mắt bao quát cả một vùng mênh mang phía hạ du…
Mã Yên là tên một quả núi có hình giống với yên ngựa. Tại đây còn một số địa danh cổ như: Núi Hình Nhân, núi Con Voi, vực Rêu. Chùa Mã Yên ở thượng nguồn vực Rêu mang trên mình những nét đậm chất huyền thoại. Chùa Mã Yên ở sườn núi Lòng Thuyền có độ dốc lớn, cây cối chủ yếu là rừng trảng, do đó việc tìm nguồn nước rất quan trọng. Tới lưng chừng ngọn núi, được cho là cấp thư 2 của chùa, có 1 giếng nước cổ, trong vắt và không bao giờ cạn, cho dù xung quanh toàn đá…
Cách đây hàng chục năm, khi đi qua khu vực này người dân gặp nhiều di vật, vật cổ nằm ngổn ngang dưới thảm rừng, một số nhóm săn lùng đồ cổ, rồi người dân nghĩ có vàng bạc châu báu nên mang cả máy dò kim loại đến đào bới, khiến khu di tích thêm một lần bị tàn phá. Và ngay cả dấu chân Phật gần giếng nước, nhiều người đi tìm cổ vật cũng đặt những khả nghi.
PV người dân địa phương: Việc đào cổ vật trước kia ở chùa
Dấu chân Phật in sâu trong đá, cũng là nơi thường xuyên có nước rò ra. Đó là dấu hiệu cho thấy giống sự tích hang tiền, hang gạo ở chùa Am Vãi (xã Nam Dương, huyện LỤc Ngạn) và động Thanh Thủy ở chùa Bình Long (Xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam), nới có nước và gạo chỉ đủ dùng cho 1 người, thể hiện tư tưởng tu hành theo Tiểu thừa. Đây là một trong những căn cứ để có những nhận định cho rằng chùa Mã Yên được xây dựng trước thời Trần, tức thời Lý. Để có những nhận định rõ ràng hơn phải căn cứ vào kết quả khảo cổ.
PV: ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Leo thêm một chút, gần nơi đỉnh núi, một không gian rộng lớn hiện ra giữa bạt ngàn cây xanh… Dấu vết khảo cổ vẫn còn nguyên, để lộ nền chùa, móng và rất nhiều chân tảng đá. Dù cổ sử đã từng nhắc đến chùa Mã Yên nhưng chỉ khi được tận mục sở thị phế tích, chúng tôi mới thấy được tầm vóc một quần thể kiến trúc cổ nằm giữa đại ngàn.
Theo đó, nền móng của ngôi thượng điện ba gian hướng Nam như: hệ thống bậc thềm, cửa, chân tảng đá còn nguyên, ngói trang trí, bát, đĩa, chum lọ, cối đá… Tại khu vực lân cận phát hiện nền móng những công trình kiến trúc khác quy mô lớn nằm rải rác trong không gian hàng nghìn m2. Nhận định sơ bộ, đó có thể là nơi ở của các nhà sư, nhà bếp, tòa tiền tế... Tất cả giải mã phần nào lịch sử ngôi chùa là 1 ngôi đại cổ tự, là bằng chứng thuyết phục về sự tồn tại một quần thể công trình kiến trúc Phật giáo đồ sộ gắn với Thiền phái Trúc Lâm mấy thế kỷ trước.
PV: ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Tại đây có sự xáo trộn giữa các lớp sinh thổ. Theo cổ sử thì chùa Mã Yên có từ thời Lý - Trần (thế kỷ XII - XIII) nhưng đến thời điểm hiện tại, chưa có bằng chứng rõ ràng để khẳng định công trình khởi dựng từ thời Lý. Với các vật liệu xây dựng có thể nhận biết di tích đã trải qua ít nhất ba mốc thời gian, gồm thời Trần (thế kỷ XIII, XIV) với sự xuất hiện của chân tảng đá hình cánh sen; thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII) với ngói mũi sen trang trí hoa văn như ý và cuối cùng là thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Điểm chung ở các ngôi chùa thời Trần là dựa vào núi, trước mặt hướng ra suối lớn, nằm trên đỉnh núi cao, xa khu dân cư.
Quy mô và lịch sử ra đời chùa Mã Yên cho thấy nhận định xưa kia đây là một trung tâm Phật giáo là có cơ sở. Sử cũ chép ngôi chùa là do Sư tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm – Pháp Loa xây dựng. Nên rất có thể đây là nơi các thiền sư đã về khai tràng thuyết pháp.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
PV cán bộ văn hóa xã: Việc bảo vệ di tích
Phế tích chùa Mã Yên cho biết những giá trị lớn về mặt văn hóa, lịch sử, tôn giáo, mỹ thuật, kỹ thuật, kiến trúc… Bên cạnh đó vẫn còn nhiều câu hỏi đặt ra đối với danh lam này. Dù có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, tôn giáo, khảo cổ nhưng phế tích chùa Mã Yên vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa được khoanh vùng, cắm mốc giới; chưa có phương án bảo vệ, giữ nguyên hiện trạng, tránh để phế tích tiếp tục bị xâm hại… Lớp bụi thời gian khiến nhiều tầng văn hóa Phật giáo bị phai nhạt, dù vậy tiếng vọng lịch sử từ những dấu xưa còn đọng lại với mỗi người đã từng đến chùa Mã Yên, đó là sự kính phục công sức người xưa đã dựng xây cổ tự trên ngọn núi cao, hiểm trở. Cùng với kính phục là trân trọng di sản mà cha ông đã tạo dựng…
Tập tiếp theo là hành trình xuôi Vực Rêu tìm về với những dấu tích Thiền phái Trúc Lâm ở phế tích chùa Sơn Tháp và chùa Bảo An./.
Tập 4: HUYỀN ẢO CHÙA SƠN THÁP
Khu vực chùa Mã Yên được nhân dân địa phương gọi là Hố Chùa. Đây là thượng nguồn của con suối Vực Rêu. Từ thượng nguồn thuộc địa phận xã Bắc Lũng, xuống hạ du là xã Cẩm Lý. Vực Rêu, một danh thắng trong sơn phận dải Huyền Đinh, tự ngàn đời xối xả đã đào khoét lòng suối thành một vực nước sâu. Vực Rêu đẹp bởi sự hùng vĩ của tạo hóa, được xem như một bồn tắm thiên tạo kỳ thú của núi rừng Huyền Đinh… Các thành viên trong đoàn đã rất vất vả mới có thể chinh phục được con suối này. Vào mùa hè, Vực Rêu là bồn tắm thiên tạo lý tưởng mà ai đã có dịp đến đây khó có thể bỏ qua. Còn đến mùa mưa, ở độ dốc cao, Vực Rêu hùng vĩ hơn nhiều bởi thác nước cao, thấp giữa vùng núi non hoang sơ của rừng đại ngàn Tây Yên Tử. Với mùa Đông, một vẻ đẹp khác hẳn hiện ra.
Xuôi Vực Rêu, xuống gần đến hạ du xuất hiện 1 ngôi chùa cổ nay chỉ còn phế tích. Đó là chùa Sơn Tháp, tên Nôm là Hòn Tháp, nằm dưới chân núi Hòn Tháp cạnh vực Rêu ở thôn Giáp Sơn, xã Cẩm Lý. Chùa xưa hiện còn nền móng, dấu tích khá đậm nét, nổi bật là 3 cấp nền có đầy đủ tam bảo, tam quan, nhà tăng ni, vườn tháp. Những diện tích này giờ phần lớn được giao đất cho các hộ dân quản lí, cỏ mọc um tùm, cây cối rậm rạp, rất khó để hình dung không gian chùa xưa.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Vốn dĩ ngôi chùa trở thành phế tích từ lâu nhưng do những đối tượng đào bới tìm cổ vật, ngôi chùa càng trở nên hoang tàn. Để vào được khu vực nền chùa, chúng tôi phải đi qua nhà ông Vũ Văn Mão. 3 năm trước, gia đình ông Mão phải ở trong căn nhà trình tường cũ nát như thế này… Ông là người tu Phật tại gia. Trước cảnh chùa xưa đổ nát, không thể đành lòng, dù chưa có nhà kiên cố, ông đã tự mua gạch ngói hết cả chục triệu đồng, rồi gánh vác lên núi xây một am nhỏ trên nền chùa để lấy chỗ hương khói. Ngày 2 lần làm lễ, tháng 10 lần tụng kinh. Ông gắn bó như vậy 3 năm nay với ngôi chùa này… Trích tụng kinh…..
PV: Ông Mão: Lí do
Xung quanh am nhỏ được ông Mão xây dựng đều là phế tích chùa Hòn Tháp. Các hiện vật còn lại được xác định là các bậc kè đá, hệ thống chân tảng cột đường kính trung bình 35cm, chóp tháp đá cổ, đá xây bệ tháp, thân tháp. Tất cả những di vật này được ông Mão và một số người dân trong làng lưu giữ. Ngay cạnh đó là nơi đặt tháp chùa. Để lên được đó quả là khó khăn… Xong, tháp xưa không còn, chỉ còn là một hố sâu. Nguyên nhân là do những người tìm cổ vật đào bới, mang đi những gì được cho là giá trị. Tại đó còn sót lại bài vị khắc chữ Hán "Huyền cơ thiện thọ Pháp Vân hòa thượng vị” cho biết đó là nơi yên nghỉ của Thiền sư Pháp Vân từng trụ trì ngôi chùa này. Sư Pháp Vân từng tu hành ở Phượng Hoàng, Hải Dương sau sang Bắc Giang. Một phần tháp đã được nhân dân di dời về khu nền chùa.Xót xa thay cho cảnh chùa đổ hương lạnh…
PV: Ông Mão
Qua tìm hiểu được biết, các di vật được tìm thấy ở vườn chùa đều là gạch, ngói vỡ và mảnh gốm sứ thời Trần, cho thấy đây vốn là đại danh lam cổ tự dưới thời Trần, được mở mang xây dựng từ đầu thế kỷ XIV. Chùa là nơi ghi dấu đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông rời hoàng cung lên núi tu tâm dưỡng tính hoằng dương Phật pháp để cứu nhân độ thế. Chi tiết đó vẫn được lưu truyền đến ngày nay. Điều này cũng phù hợp với nội dung chép trong sách Đạo giáo Nguyên Lưu, phần Trần Triều danh đức ghi "Vua Trần đi về phía Đông, đến chùa Sơn Tháp và lưu ở đó” rồi lên Yên Tử tu hành.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Chùa Sơn Tháp là đại danh lam dưới thời Trần, ghi dấu lịch sử phát triển của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. Cảnh cũ chùa xưa tuy không còn nhưng những hiện vật, di vật, phế tích nền móng cũ đã nói lên sự bề thế của công trình kiến trúc cổ, đánh dấu thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. Với những công trình này, cần lắm sự quan tâm nghiên cứu, bảo vệ để làm rõ hơn lịch sử hình thành và quá trình hoằng dương của Phật pháp Trúc Lâm.
Chia tay xã Cẩm Lý, chúng tôi không khỏi bùi ngùi bởi chùa Sơn Tháp vẫn lặng yên nằm đó đợi thời gian bào mòn những dấu tích xưa cũ…
Tiếp tục hạ sơn theo hướng đường 293, chúng tôi tới xã Cương Sơn, huyện Lục Nam. Xã Cương Sơn nổi tiếng với nghề trồng khoai lang ở làng Đọ. Bởi vậy dân gian mới có câu Mít làng Nghè, chè Mai Sưu, quang nứa làng Sàng, khoai lang làng Đọ. Ngày cạnh con đường tâm linh là ngôi cổ tự Bảo An, có tên nôm là chùa Tè. Chùa nằm ở cửa ngõ thung lũng Lục Nam và Mai Sưu, gần cầu Lục Nam, tọa lạc trên gò cao. Trước kia, chùa ở trên núi Gốm, sau dịch chuyển về đây. Chùa Bảo An được xây dựng từ thời Lê Sơ, mang đậm nét trầm mặc, cổ kính từ kiến trúc cho tới cảnh trí quanh chùa. Trước cửa chùa có 2 cây đại được cho là gần nghìn năm tuổi cùng vườn tháp thờ các sư trụ trì đã tạo nên quang cảnh thanh tịnh, tĩnh mịch đặc trưng của ngôi cổ tự.
Đây là một trong số ít chùa còn lưu giữ nhiều sách cổ viết bằng chữ Hán Nôm, trong đó phần lớn các sách được in ấn từ chùa Vĩnh Nghiêm. Trước khi về vãn cảnh chùa, chúng tôi được biết bản tự có lưu trữ cuốn sách Khóa hư lục của Trần Thái Tông. Tuy nhiên theo sư trụ trì của chùa, một số sách cổ đã bị mất, trong đó có cuốn Khóa hư lục.
PV: Sư trụ trì
PV: Ông Nguyễn Xuân Cần, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
(Nói về tư tưởng của cuốn Khóa hư lục)
Từ chùa Sơn Tháp tới chùa Bảo An, nơi nào cũng mang dấu tích của Thiền phái Trúc Lâm. Có những giá trị đã được bảo tồn, phát huy, có những giá trị đã mai một. Những dấu tích ấy cho ta biết về quãng thời gian Trúc lâm Yên Tử được hoằng dương rộng rãi từ núi cao tới đồng bằng. Những dấu xưa mà không cũ của dòng thiền Trúc Lâm ở các ngôi chùa đang làm tỏa sáng những giá trị của kí ức ở miền Tây Yên Tử. Bởi vậy, càng đi, càng tìm hiểu, những người thực hiện bộ phim này càng cảm thấy nuối tiếc những di vật, những giá trị cũ bị bào mòn bởi thời gian và có lẽ cũng bởi chính không ít những con người đã được miền đất Tây Yên Tử nuôi dưỡng./.
Tập 5: BÌNH LONG TỰ TRÊN BÁT NHÃ SƠN
Xã Huyền Sơn nằm trọn bên dãy Huyền Đinh. Nơi đây có phế tích cổ tự Bình Long nổi tiếng. Sự nổi tiếng của 1 ngôi chùa chỉ còn là phế tích khiến nhiều người tò mò đặt câu hỏi: có điều đặc biệt gì điểm đặc biệt ở ngôi chùa…?
Huyền Sơn được mệnh danh là "thủ phủ na dai” của tỉnh Bắc Giang. Cây na được trồng ở Huyền Sơn từ rất lâu rồi, ban đầu chỉ là một số gia đình trồng để ăn. Đến khoảng những năm 1987 - 1988, nhiều người được ăn, thấy giống na ngon, họ lặn lội lên tận Huyền Sơn đặt mua. Quả na dai Huyền Sơn bắt đầu vươn xa, theo chân các thương lái đến nhiều vùng khác nhautrên cả nước. Những năm 1990 trở về đây, người dân Huyền Sơn bắt đầu phát triển thêm diện tích trồng na, sau khi đã trồng nhiều cây ăn quả khác không hiệu quả. Khoảng 10 năm trở lại đây, cây na trở thành cây phát triển kinh tế chính của địa phương. Quả na dai Huyền Sơn nổi tiếng nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào trồng, chăm sóc, cho năng suất cao, chất lượng tốt mẫu mà đẹp, để được lâu hơn các loại na ở nơi khác, hơn nữa có thể cho ra quả trái vụ. Từ cây na, đời sống của nhân dân Huyền Sơn cái thiện rõ rệt...
Để đến được chùa Bình Long trên núi Bát Nhã phải đi qua những cánh đồng na. Đường lên chùa phải băng qua nhiều cánh rừng có độ dốc lớn, mất khoảng 2 tiếng đồng hồ. Trước khi leo núi, chúng tôi đã được người dân địa phương khuyến cáo trước nếu sức khỏe yếu sẽ không lên tới nơi… Trên đường lên phải đi qua cửa rừng. Ở Huyền Sơn có phong tục thờ thần rừng ở các cửa rừng. Do vậy, các cửa rừng dẫn lên núi đều có miếu thờ. Miếu Hố Cả là một trong số đó, miếu nằm cạnh đường lên chùa Bình Long…
Chùa Bình Long là một trong những ngôi chùa cổ bên sườn Tây Yên Tử, từng được sử sách lưu danh, dân gian truyền tụng là một trung tâm Phật giáo, danh lam cổ tự lớn dưới thời Lý-Trần liên quan tới chùa Vĩnh nghiêm và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Căn cứ vào các tài liệu nghiên cứu hiện còn lưu giữ tại Bảo tàng Bắc Giang và qua lời kể của các cụ cao niên trong làng cùng những hiện vật còn lưu lại được biết, chùa Bình Long được khởi dựng từ thời Lý-Trần.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Mất khoảng 2 tiếng leo đồi len lỏi trong các cánh rừng, chúng tôi cũng lên được tới khu vực chùa Bình Long. Trước khi tới chùa phải đi qua giếng nước cổ. Ở đó nay vẫn còn chữ khắc trên đá ghi là "động Thanh Thủy”. Nay giếng đã bị lấp nhưng dấu tích vẫn còn. Trong chùa trước kia có nhà sư trụ trì nên câu chuyện về giếng nước trên núi cao khiến chúng tôi liên tưởng tới truyền tích về hang tiền và hang gạo ở chùa Am Vãi trên núi Am Ni, xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn và dấu chân Phật ở chùa Mã Yên, xã Bắc Lũng, huyện Lục Nam. Có lẽ đó là biểu hiện của tư tưởng dòng thiền trước thời Trần.
Các nhà nghiên cứu cho biết, chùa Bình Long được phát triển mạnh vào thời Trần với quy mô lớn, rộng khắp cả sườn núi gần 1ha. Xung quanh chùa có những phiến đá lớn có thể an tọa, hóng mát và tọa thiền. Chùa ngoảnh hướng Tây Bắc, gần rừng dẻ, dãy Hang Dơi và Nghè Cả của dải núi Huyền Đinh trùng điệp. Từ đây có thể bao quát cả khu vực thị trấn Lục Nam. Quanh khu vực chùa, cây cối trong núi quanh năm xanh tốt, không khí mát mẻ, cảnh sắc u tịch đậm chất Thiền…
Phế tích hé lộ những bí ẩn về lịch sử ngôi chùa nhưng không khỏi khiến chúng tôi cảm thấy xót xa cho ngôi đại cổ tự trong quá khứ. Những chân tảng đá nằm lạnh ngắt với mưa gió. Những bờ tường kè đá nằm trơ hàng trăm năm… Vâng, một quang cảnh u tịch, thâm trầm nhưng cũng rất hoang lạnh…
Đến thời Lê-Mạc, chùa Bình Long được di chuyển xuống chân núi, ở trên một quả đồi nhỏ, cạnh con suối bắt nguồn từ cánh rừng chùa Bình Long. Việc chuyển về đây là để nhân dân tiện bề hương khói. Chùa ở đây được xây dựng với quy mô lớn. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và chiến tranh tàn phá, ngôi chùa ở khu vực này cũng trở thành một phế tích, chỉ còn những dấu vết vật chất để minh chứng. Bao quanh chùa là bờ tường đất đắp chạy xung quanh nửa sườn đồi, đã bị nắng mưa làm xói mòn, cây cỏ mọc um tùm. Nền chùa bị đào bới do nhân dân làm bãi nên khó xác định.
PV: Trưởng thôn
Với tấm lòng thành tâm hướng Phật, sau một thời gian bị gián đoạn vì những thăng trầm của lịch sử, chùa Bình Long đã được nhân dân địa phương hưng công trùng tu, tôn tạo lại ở vị trí trung tâm làng Chùa, đối diện với trụ sở UBND xã Huyền Sơn. Đây là một vị trí đẹp, phía trước chùa có ao, có ngòi chảy ra sông Lục. Do vậy để vào được chùa phải qua một cây cầu khá đẹp càng tôn thêm dáng vẻ mới của ngôi chùa. Qua được cây cầu để tiến vào chốn thiền môn tĩnh tâm bước vào cửa Phật, như trút bỏ được bao lo toan bộn bề của cuộc sống thường nhật lại phía sau…
Ngôi chùa hiện nay tuy không rộng lớn như xưa, nhưng đó là lòng thành tâm của nhân dân địa phương. Sau nhiều năm dịch chuyển, chùa đã về gần hơn với làng, với nhân dân. Chùa có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh gồm tòa tiền đường 3 gian nối vuông góc với tòa thượng điện 3 gian xây bình đầu bít đốc, ngoảnh hướng Tây. Trong chùa, hệ thống tượng Phật được bài trí đăng đối hài hòa. Dường như những tư tưởng và triết lý nhà Phật đều được các nghệ nhân tạc tượng gửi gắm qua đường nét sinh động trên từng gương mặt, dáng đứng, thế ngồi.
Trong hàng trăm năm tồn tại, chùa Bình Long cho thấy rõ nhất sự dịch chuyển từ núi xuống đồi rồi tới đồng bằng. Sự dịch chuyển này không đơn thuần là về vấn đề địa lý mà đó là biểu hiện của tư tưởng tu thiền theo phái Trúc Lâm Yên Tử - Thiềm tâm mà thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ 3 tu chùa.
PV: Ông Nguyễn Xuân Cần, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Chùa Bình Long không chỉ có diện mạo mới, một số di vật cũ của chùa khi ở trên núi cao cũng được nhân dân di chuyển về đây. Sự hồi sinh của ngôi cổ tự khiến ai nấy cũng hoa hỉ. Nhưng với những phế tích, với những di vật vẫn trơ trọi giữa núi rừng, chưa được nghiên cứu và bảo vệ xứng đáng, thì đó cũng là điều đáng suy ngẫm. Bởi suy cho cùng, cái biểu hiện của ngày hôm nay cũng không thể che mờ những giá trị của lịch sử, nhất là đối với ngôi chùa đã từng là trung tâm Phật giáo của thiền phái đậm chất Việt –Trúc Lâm Yên Tử…
Trong tập tiếp theo là hành trình hạ sơn đến với những ngôi cổ tự ở hạ nguồn suối Mỡ./.
Tập 6: NHỮNG NGÔI CỔ TỰ HẠ NGUỒN SUỐI MỠ
Trong hành trình phía Tây Yên Tử chưa nơi nào cho thấy sự hưng thịnh rõ nét của những ngôi chùa ở dưới đồng bằng so với các ngôi chùa trên núi như ở xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam. Sự tập trung các ngôi chùa với mật độ dày ở dọc đường 293 là một trong những biểu hiện đó… Có thể nói, đường 293 đã kết nối các điểm tâm linh trong xã Nghĩa Phương, đặc biệt là các ngôi chùa ở hạ nguồn suối Mỡ.
Về Nghĩa Phương, mọi người nghĩ ngay tới Khu du lịch suối Mỡ nhưng lại không nhiều người biết ở ngay đường vào suối Mỡ có 1 nơi thờ vị danh nhân nổi tiếng trong vùng, ông Nghè Hà Chiếu. Trong lịch sử khoa cử tỉnh Bắc Giang, vùng đất Lục Nam chính là nơi phát tích đầu tiên cho nền học vấn tỉnh nhà. Hiện nay, tại xã Nghĩa Phương còn đền Hàn Lâm và nghè Giếng thờ hai vị khai khoa bảng nhãn là Hà Chiếu và Dương An Quý.
Đền Hàn Lâm (còn gọi là nghè Hàn Lâm) nằm ở đầu làng Tân Hương, xã Nghĩa Phương. Theo thần tích lưu tại đây, ngôi đền có từ thời Lý (thế kỷ XI-XII), thờ quan Hàn lâm học sĩ Hà Chiếu. Sách "Bắc Giang địa chí” của Trịnh Như Tấu (năm 1937) có bổ sung đề cập đến tên của Hà Chiếu và Dương An Quý quê ở Nghĩa Phương. Theo đó, Hà Chiếu đã từng thi và trúng tuyển khoa thi Thái học sinh dưới thời vua Lý Anh Tông (1138-1175), có nhiều đóng góp cho sự nghiệp bang giao của Đại Việt. Truyện rằng, khi đó có bọn giặc Đàm Hữu Lượng tàn phá vùng Quảng Uyên, Hà Chiếu được triều đình phái sang nhà Tống đàm đạo, nhờ đó tự thế giặc phải tan. Trở về nước, Hà Chiếu được phong là Thắng Địch hầu. Một thời gian sau, Vua Lý Anh Tông tiếp tục cử Hà Chiếu và Dương An Quý đi sứ nhà Tống. Hà Chiếu ứng đối lưu loát nên được vua Tống rất tôn trọng. Chẳng may khi sứ bộ vẫn còn lưu trên đất khách, Hà Chiếu bị bệnh mà mất. Vua Tống vô cùng thương xót, cho đúc quan tài bằng sắt rước linh cữu đưa về Đại Việt. Lý Anh Tông phong Hà Chiếu là Thắng Địch hướng thiên cư sĩ đại vương, phong thần, cho 27 xã phụng sự. Bởi vậy mới có câu đối ca ngợi công lao to lớn của ông sánh ngang cùng trời Nam, đất Bắc: "Học sĩ thanh danh dương Bắc địa/ Bồng lai cung khuyết đối Nam thiên”; nghĩa là:Học sĩ tiếng thơm lừng đất Bắc / Cung tiên cao rộng sánh trời Nam.
Ngay đường 293 rẽ vào thôn Ngạc Làng có một ngôi chùa cổ mà sự hưng thịnh của Phật giáo được thể hiện rõ qua những hiện vật và sự chăm chút cho ngôi chùa của nhân dân địa phương hàng trăm năm qua. Ngạc Làng có địa hình khá bằng phẳng, lại gần sông Lục Nam, do vậy sự tồn tại của ngôi chùa Lệ Ngạc nhiều thế kỉ qua là dấu tích cho thấy xưa nay ngôi chùa này hương khói vẫn hưng vượng.
Biết chúng tôi về thăm chùa, rất nhiều cụ cao niên đã đến để kể về lịch sử ngôi chùa. Gần như ai cũng nằm lòng những thông tin đó. Chùa Lệ Ngạc là ngôi chùa cổ mang dấu ấn văn hoá thời Trần, gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngôi chùa thuộc vùng phụ cận dãy Huyền Đinh - Yên Tử. Chùa có lịch sử từ lâu đời và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Dấu hiệu nhận biết ngôi chùa cổ thể hiện trên phần nền móng được tôn đẩy lên ở vị trí cao. Mặt khác, chùa Lệ Ngạc nằm gần sông Lục Nam, bên kia là dãy núi Ải (huyệnLục Ngạn) vào mùa mưa lũ thường bị ngập lụt, có thể do tránh ngập lụt nên nhân dân địa phương đã tôn phần nền chùa, đẩy ngôi chùa lên ở vị trí cao hẳn so với xung quanh.
PV: Trưởng thôn
PV: Người cao tuổi
Chùa không bề thế nhưng quang cảnh cũng toát lên vẻ trang nghiêm, trầm mặc và thanh thịnh ở giữa Ngạc Làng. Trong chùa còn lưu giữ được nhiều dấu tích cũ, trong đó có bệ đá hoa sen có những họa tiết mang kiến trúc đặc trưng thời Trần. Bệ đá chân tảng hình vuông cạnh 80 cm, chất liệu đá nhám, trên bề mặt trang trí hoạ tiết hoa văn hình 27 cánh sen. Mỗi cánh sen dài 10cm, rộng 9cm. Căn cứ vào những nhận định trên, cho thấy chùa Lệ Ngạc là công trình văn hoá tôn giáo được xây dựng từ thời Trần và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Xung quanh bệ đá này cũng có nhiều câu chuyện. Nhưng có điểm chung so với các ngôi chùa cổ khác, đặc biệt là ở những ngôi chùa chỉ còn là phế tích, đó là những di vật cũ đều trở thành đối tượng nhòm ngó của những kẻ săn lùng cổ vật…
Chùa Lệ Ngạc hiện nay có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh, gồm toà tiền đường ba gian, nối với toà thượng điện hai gian. Trong chùa còn lưu giữ được 18 pho tượng Phật, mang phong cách thời Lê và thời Nguyễn, có giá trị lịch sử văn hoá và giá trị nghệ thuật. Chùa Lệ Ngạc là trung tâm văn hoá tôn giáo, cũngnơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương. Hội lệ hàng năm tổ chức ngày 8 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội có nhiều trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Như vậy bước đầu có thể thấy, chùa Lệ Ngạc đã được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa ở thời Lê, thời Nguyễn và các giai đoạn sau này.
Khảo sát các công trình văn hoá tôn giáo thuộc sườn Tây Yên Tử, cho thấy có rất nhiều các di tích lịch sử văn hoá và dấu tích của những ngôi chùa cổ từ thời Lý – Trần. Chùa Lệ Ngạc chỉ là một trong số những ngôi chùa cổ thuộc vùng ven sườn Tây Yên Tử. Vẫn còn những ngôi chùa khác như thế ở ngay trên mảnh đất này, mà dáng mới không khỏa lấp những dấu xưa. Gần đó làng Quỷnh, nơi có ngôi chùa Quỷnh. Đây là làng từ xa xưa đã đã có đặc sản nổi tiếng, bởi vậy mới có câu ca rằng: Muốn ăn cơm trắng cá rô/ Thì về Dùm Quỷnh quẩy bồ với em. Chùa làng Quỷnh mới được hưng công xây dựng khang trang và khánh thành dịp đầu năm 2018...
Ngược đường 293 một chút nữa là đến là Dùm. Ngôi làng vùng cao trở nên sáng sủa, hiện đại hơn nhờ con đường này. Nơi đây có ngôi chùa làng Dùm cũng mới được nhân dân xây dựng mớitrên nền chùa cũ đã xuống cấp. Chùa tọa lạc trên thế đất cao giữa thung lũng Nghĩa Phương, xung quanh là đồi núi... Khi chúng tôi đến, dù đã 12 giờ trưa nhưng cảnh chùa vẫn đông đúc, bà con tập trung hương khói, tụng kinh... Một cảnh thiền cho thấy sự hưng thịnh của Phật giáo ở nơi này. Chùa mới, cảnh mới nhưng dấu xưa vẫn còn hiện hữu ở đây. Đó là biểu hiện của quá trình phát triển lâu đời của ngôi chùa. Theo người dân nơi đây, khi xây chùa, những dấu tích cũ, như các bệ đá kê cột đường kính khoảng 50cm vẫn được giữ lại như để nhắc nhở sự tồn tại của ngôi chùa cũ, cũng như những giáo lýPhật giáo Trúc Lâm xưa nay không hề thay đổi, cho dù cuộc sống có xoay vần thế nào thì trên mảnh đất này tư tưởng đó vẫn thấm đẫm trongtiềm thức của người dân...
PV: Cán bộ văn hóa xã
Thật đáng mừng khi những ngôi chùa hạ nguồn suối Mỡ được nhân dân trùng tu, bảo tồn, ngày đêm hương khói. Có lẽ đó là kết quả của sự dịch chuyển các ngôi chùa từ núi về làng, qua đó cũng là để thấy được tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm vẫn hợp với lòng dân, dù đã trải qua nhiều thế kỉ…
Tập tiếp theo là hành trình ngược dòng suối Mỡlên đỉnh Huyền Đinh thăm chùa Hồ Bấc, một ngôi cổ tự giữa núi rừng./.
Tập 7: HỒ BẤC – CHỐN THIÊNG TRÊN ĐỈNH NON THIÊNG
Suối Mỡ là khu du lịch nổi tiếng nhất tỉnh Bắc Giang. Trọn vẹn tua du lịch Suối Mỡ bắt đầu từ đền Hạ đến đỉnh núi Hồ Bấc, đó là nơi ngọn nguồn suối Mỡ có chùa Hồ Bấc ở đó. Dù đã nhiều lần đến Suối Mỡ nhưng chưa lần nào chúng tôi chinh phục được ngọn núi này để thăm chùa Hồ Bấc. Điều đó càng thôi thúc chúng tôi quyết tâm thực hiện hành trình …
Suối Mỡ được ví như dòng thác bạc bên sườn Tây Yên Tử. Vẻ đẹp tự nhiên của con suối tạo nên nơi đây một bức tranh sơn thủy hữu tình. Đây không chỉ là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn ở Bắc Giang, suối Mỡ còn là điểm du lịchtâm linh nổi tiếng với ba ngôi đền thờ Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng của Suối Mỡ gắn liền với ba ngôi đền này.
Suối Mỡ đã được đầu tư hàng trăm tỉ đồng để biến nơi đây trở thành khu du lịch tổng hợp lớn nhất Bắc Giang với đầy đủ hạng mục nhằm phục vụ nhu cầu về nghỉ dưỡng, thăm quan, cắm trại, leo núi, bơi thuyền, câu cá. Và nay, đây là địa chỉ quen thuộc của các đoàn du lịch trong và ngoài nước…
Cùng đi với chúng tôi có anh Tuấn là Phó Trưởng Ban quản lí Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ và cán bộ của Ban. Các anh là những người thường xuyên đi thị sát các cánh rừng. Bởi nay, hơn 1.000 ha rừng quanh suối Mỡ đã được giao cho Ban để quản lí. Anh Tuấn cho biết nếu đi vào mấy hôm trước chắc chắn là không leo lên được, bởi trời mưa, đường trơn và rất nhiều vắt.
Trên đường bộ hành lên chùa Hồ Bấc, chúng tôi được thưởng ngoạn phong cảnh kì vĩ, đặc biệt là thác Thùm Thùm nổi tiếng, một trong những điểm nhấn của suối Mỡ. Leo thêm 1 chút là tới đình Chòi Xoan. Được biết trước kia khu vực này có rất nhiều hộ dân sinh sống, đình cũng được xây dựng bề thế. Nhưng nay, người không còn, đình cũng xuống cấp dần và chỉ còn là một vị trí thờ khiêm tốn…
Ban Quản lí Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ có dự định mở tuyến du lịch phượt lên chùa Hồ Bấc, do vậy đã đầu tư gần 100 triệu đồng để mở đường. Tuy nhiên, do độ dốc cao nên leo núi khá mệt, hơn nữa đường chưa mở tới nơi nên anh Tuấn khuyên các thành viên trong đoàn chuẩn bị băng rừng…
Đường từ Suối Mỡ đến chùa Hồ Bấc chỉ dăm cây số đường chim bay nhưng leo núi cũng mất đến ba giờ đồng hồ. Trên đường phải vượt qua nhiều cánh rừng, nhiều ngọn núi khác nhau. Nhờ vậy, chúng tôi được chiêm ngưỡng nhiều cảnh đẹp của núi rừng Huyền Đinh… Rừng rậm rạp, gần như không có đường mòn, đi phần lớn là chui qua các thảm thực vật dày đặc. Do vậy rất nhanh mệt, cả đoàn phải nghỉ rất nhiều lần… Qua câu chuyện, chúng tôi được biết trước đây không lâu, các anh ở Ban Quản lí Khu du lịch sinh thái suối Mỡ phải vác tôn, tấm lợp băng rừng lên dựng chùa Hồ Bấc…
Nghe nói cánh rừng này là nơi có mật độ vắt dày nhất khu vực dãy Huyền Đinh, bởi độ ẩm cao. Nếu đi vào mùa Hè thì chỉ còn cách mặc quần áo mưa kín mít hoặc xịt thuốc muỗi đẫm mình. Đi rừng vào mùa Đông đỡ hơn nhưng khi băng qua những lạch suối hay những nơi độ ẩm cao vẫn rất nhiều vắt, nhiều người trong đoàn lần đầu thấy vắt nên rất hốt hoảng, sợ hãi…
Sau hơn 3 tiếng leo núi chui rừng, chúng tôi cũng chinh phục được ngọn núi này. Một không gian rộng lớn giữa đại ngàn Huyền Đinh hiện ra…
Chùa Hồ Bấc nằm trên đỉnh một ngọn núi cao, xấp xỉ 800m, dựa lưng vào đỉnh núi Hồ Bấc, hướng về chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Hai bên chùa, núi bao bọc vòng quanh. Đối diện phía bên kia là chùa Thanh Mai tỉnh Hải Dương. Ở đây, vài năm trước đã có những đoàn khảo cổ đến nghiên cứu cả tháng trời, vật dụng sinh hoạt của họ vẫn còn để lại đây. Kết quả khảo cổ cho biết đây là khu chùa cổ có từ thời Trần, được các vị cao tăng Phật giáo Trúc lâm xây dựng khi dòng thiền này còn hưng thịnh và được tu tạo lớn vào thời Lê - Mạc. Chùa Hồ Bấc tồn tại đến thời Lê trung hưng thì bị suy vi, đổ nát khiến cây rừng chen chỗ… Dấu tích còn lại là các cấp nền chùa khá rộng, chia làm hai khu: khu Tam bảo và khu nhà cho tăng ni ở. Xung quanh có bờ tường kè bằng đá. Trên khu Tam bảo còn nhiều chân tảng bằng đá rộng chừng 40cm và vật liệu gạch, ngói xây chùa. Tất cả cho thấy, xưa kia đây là một ngôi chùa bề thế, trên một diện tích rộng, xung quanh là rừng rậm rạp. Chỉ tưởng tượng thôi cũng thấy được sự gian nan khi dựng chùa ở nơi này, khiến mỗi người khâm phục ý chí người xưa… Ngày nay, khu vực chùa là rừng tự nhiên rậm rạp, chỉ còn khoảng trống là khu Tam bảo, nhà tăng ni cũ…
Khu vực này chỉ có các thành viên của Ban Quản lí thái Suối Mỡ và số ít người dân lân cận qua lại thắp hương, hành lễ. Chính vì vậy, Ban đã cất công dựng lên một am nhỏ trên nền chùa cũ để lấy chỗ cho nhân dân đi rừng làm lễ, niệm phật…
PV: Anh Tuấn, Phó Trưởng Ban quản lí Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ
Chùa Hồ Bấc nhìn vào một hồ cổ lớn xấp xỉ 2 ha. Hồ này nay đã cạn nước. Giữa hồ có một cái giếng cũng đã cạn nên gọi là Hồ Bấc. Các khu trong chùa Hồ Bấc đều có lối ra vào hồ, tuy nhiên nay đã bị cây rừng chen kín. Có lẽ hồ là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho các bậc tu hành ở đây….. Đến hồ Bấc, chúng tôi được nghe câu chuyện về trạch máu trắng. Ở hồ này, những ngày hè, có nước, người dân vẫn thường vào đây bắt trạch, toàn bộ trạch ở đây đều là máu trắng. Điểm lạ này đến nay chưa có lời giải đáp. Chúng tôi khá tò mò và cũng muốn tìm hiểu xem những con trạch đó như thế nào. Tuy nhiên, vào mùa Đông hồ cạn khô nên khó có thể bắt được trạch…..Đi qua hồ Bấc một chút là đến địa phận Thanh Mai, tỉnh Hải Dương. Nơi đây có một cao nguyên rộng, chỉ có cỏ và đá, rất giống với Đồng Cao của huyện Sơn Động…..Dự kiến tuyến đường mòn, ô tô 2 cầu có thể đi được đến chùa Hồ Bấc sẽ hoàn thành trong thời gian tới. Tuyến đường đó nằm trong kế hoạch mở rộng khu vực tham quan của suối Mỡ lên chùa Hồ Bấc và đến cao nguyên này của Ban Quản lí suối Mỡ.
PV: Anh Tuấn, Phó Trưởng Ban quản lí Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ
Chia tay Hồ Bấc, lại 1 chặng đường dài băng rừng, vượt núi. Dù được chứng kiến những cảnh quan lạ và kì vĩ, được nghe những câu chuyện thú vị về trạch máu trắng, nhưng chúng tôi không tránh khỏi cảm giác se lòng khi nghỉ về chùa Hồ Bấc: một ngôi cổ tự có lịch sử lâu đời, bề thế giữa núi rừng trùng điệp và cảnh quan hùng vĩ lại trở thành một phế tích hoang lạnh giữa đại ngàn. Mong rằng, những dự định của Ban Quản lí Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ sớm trở thành hiện thực, để ngôi chùa được hồi sinh, làm sống lại những dấu xưa vẫn còn đang bị chôn vùi nơi núi rừng Huyền Đinh…
Tập tiếp theo là hành trình tìm hiểu những dấu xưa tích cũ gần nghìn năm tuổi của chùa Đám trì, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam./.
Tập 8: CHÙA ĐÁM TRÌ – DẤU TÍCH VĂN HÓA LÝ- TRẦN
Xã Lục Sơn xưa là vùng hẻo lánh, xa xôi và khó khăn nhất của huyện Lục Nam. Giờ đây đến Lục Sơn khá dễ dàng nhờ con đường tâm linh. Tuy nhiên, vẫn có 1 con đường khác để đến xã này nếu muốn khám phá, đó là đường thủy. Trên dòng sông Lục Nam có một ngã ba sông độc đáo mà ở đó mỗi mỏm sông có 1 ngôi đền thờ Thánh Tam Giang, ngã ba sông Bò. Đây là đoạn giao cắt giữa sông Bò và sông Lục Nam. Sông Bò phát nguyên từ Lục Sơn, trên dãy Phật Sơn, chảy qua xã Bình Sơn, Trường Giang rồi đổi ra sông Lục Nam. Chính dòng nước bắt nguồn từ núi Phật hòa cùng mạch nước có những sợi nhớ, sợi mong của nàng Tô Thị đã tạo nên một ngã ba sông đặc biệt này…
Về Lục Sơn, chúng tôi muốn tìm về chùa Đám Trì, bởi ở đó các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo cổ và phát hiện nhiều di vật liên quan đến phật giáo thời Lý – Trần. Tuy nhiên, trước khi đến với ngôi chùa này, chúng tôi không thể bỏ qua suối Nước Vàng. Suối chạy dọc theo dãy núi Phật Sơn tạo nên những khúc biến tấu thú vị. Đã có rất nhiều lý giải khác nhau về con suối có nước màu vàng óng như mật ong, như do quá trình phân hủy và kết tụ của cây cối hàng ngàn năm, do nước đọng trên những phiến đá cát nhám có màu vàng, nên dòng suối mới có màu như thế...
Trên đường tới chùa Đám Trì, người dân nơi đây chỉ cho chúng tôi tới thăm chùa Đồng Vành. Đây cũng là một ngôi chùa cổ, có lịch sử từ thời Trần. Chùa tọa lạc trên một quả đồi, hướng ra cánh đồng rộng lớn… Trong khuôn viên ngôi chùa cũng là khu căn cứ kháng chiến chống thực dân Pháp của của liên tỉnh Quảng – Hồng (tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Tại đó, tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng bia lưu niệm nhằm tri ân các thế hệ cách mạng…
Đám Trì là một làng cổ ở tận cùng vùng sơn lâm Tây Yên Tử của xã Lục Sơn. Đây là xã miền núi nhưng trong thôn Đám Trì lại có một cánh đồng rộng lớn, bằng phẳng được bao quanh bởi các dãy núi trùng điệp. Ở giữa cánh đồng, trên 1 gò đất cao có chùa Đám Trì, ngôi chùa mới được nhân dân địa phương xây dựng lại. Cách dây khoảng 4 năm, tại đây đã phát lộ những dấu tích của nền văn hóa Lý – Trần. Phát hiện này đã mở ra những triển vọng mới cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa nói thời Lý - Trần miền Tây Yên Tử. Ông Hoàng Văn Dân khi đó là trưởng thôn Đám Trì. Ông cho biết, sự việc bắt nguồn từ năm 2013 khi cuốc móng để nâng cấp tòa Tam bảo chùa làng, nhân dân đã phát hiện nhiều vật liệu xây dựng bằng đất nung, đá cát kết có hình thù lạ và đẹp mắt ở độ sâu từ 35 - 70 cm.
PV: Ông Hoàng Văn Dân, trưởng thôn Đám Trì, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam
Sau đó, Bảo tàng tỉnh phối hợp với Viện Khảo cổ học đã phát hiện được hơn 2.500 hiện vật có giá trị. Một số được lưu giữ ở chùa, một số được trưng bày ở Bảo tàng tỉnh Bắc Giang. Trong đó phát hiện nhiều là những mảnh ngói mũi hài có bề rộng 20 - 22m, mũi hài cao 5 cm và một số phiên bản ngói mỏng khác đều có màu nâu đỏ nhưng còn khá rắn chắc. Cùng với các mảnh ngói là các con thú như con kìm, con sấu đất nung già màu xám tro rất ngộ nghĩnh và nhiều chân tảng, cối được tạo tác bằng đá cát kết. Đặc biệt trong đó có mảnh ngói bằng chất liệu đất nung tạo tác hình lá đề.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Tuy không còn nguyên nhưng, ngói hình là đề có kích thước khá lớn và hoa văn còn rõ nét. Khi khôi phục theo hình dáng, các lá đề có chiều cao từ cuống đến chóp lá 20 cm, bề ngang chỗ rộng nhất 18 cm, bề dày xấp xỉ 3cm. Lá đề có chính giữa là hình ngôi tháp 7 tầng, hai bên có đôi rồng uốn chín khúc. Bên cạnh những mảnh ngói này, người dân cũng phát hiện ra các tiêu bản phần thân ngói âm dương để gắn phần lá đề nhưng số lượng ít. Đối chiếu cùng các tiêu bản vật liệu ngói, con thú phát hiện ở các di chỉ khảo cổ được phát hiện trước đó như ở Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), chùa Dạm (Quế Võ - Bắc Ninh), đền Cầu Từ (huyện Lục Ngạn), ngói lá đề được xác định là sản phẩm của ngôi chùa xây dựng từ thời Lý (thế kỷ 11 - 13), mảnh ngói mũi hài là di vật đặc trưng thời Trần (thế kỷ 13 - 14). Một số loại ngói khác và con thú đất nung phát hiện ở đây là sản phẩm của thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 16 -18). Với những giá trị đặc biệt, địa điểm khảo cổ chùa Đám Trì được UBND tỉnh xếp hạng Di chỉ khảo cổ.
Theo Địa chí Bắc Giang, chùa Đám Trì tương truyền được xây dựng dưới triều Trần, là nơi thờ Phật và các Công chúa nhà Trần đã có công xây dựng chùa. Xưa chùa có quy mô lớn, đã bị Pháp đốt phá từ năm 1948. Năm 1994, chùa được dựng lại trên nền đất cũ với gần chục pho tượng Phật gỗ mít để thờ. Công trình mới gồm có tòa Tiền đường 3 gian, nối liền với thượng điện 1 gian nhỏ phía sau theo kiến trúc hình chuôi vồ, nhà xây kiểu gác tường khá chắc chắn.
Như vậy, có thể khái quát chùa Đám Trì được xây dựng từ thời Lý - Trần và được trùng tu vào những thời kỳ sau này dưới các triều đại Lê - Mạc, Nguyễn. Ngôi chùa chỉ bị lụi tàn khi thực dân Pháp phá hủy.
Người dân ở đây cho biết, từ chùa Đám Trí đi tới các chùa như Ngọa Vân, Hồ Thiên, Am Vãi, Hồ Bấc khá gần, trong đó chùa Đám Trì tọa lạc ở giữa. Cùng với hơn 2.500 hiện vật khảo cổ được phát hiện đã phần nào khẳng định vị trí vô cùng quan trọng của chùa Đám Trì trong mối liên quan mật thiết với các ngôi chùa xung quanh thuộc sườn Tây Yên Tử. Điều đó bước đầu đoán định chùa Đám Trì là nơi các sư tổ, tăng ni thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nghỉ ngơi trước khi hành trình leo núi đến các ngôi chùa để tu giảng đạo pháp.
Khi tới chùa Đám Trì, ai cũng dễ dàng bắt gặp những mảnh gạch, ngói vỡ nát vương vãi trên một khoảng không gian rộng lớn ở sứ đồng Khu Chùa, giống với hiện vật khi tiến hành khảo cổ đã phát hiện. Khi người dân canh tác đào sâu dưới đất cũng bắt gặp những vật liệu đó. Điều đó được nhiều người nhận định phạm vi ngôi chùa Đám Trì xưa kia rất rộng lớn. Vậy, tại sao ở một nơi sơn cùng thủy tận như Đám Trì lại có một ngôi chùa rộng, bề thế như vậy.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Ngày nay, chùa Đám Trì được nhân dân xây dựng trên nền chùa cũ, tuy không rộng lớn như xưa nhưng là tấm lòng thành kính với những giá trị người xưa để lại trên mảnh đất này. Sự hiện hữu của ngôi chùa mới trên nền chùa cổ cùng với các hiện vật gần nghìn năm cho thấy những dấu xưa vẫn còn được phát huy, đó cũng là cách ứng xử với di tích cổ của nhân dân trong vùng. Song, với những gì phát hiện được, chùa Đám Trì cần được nghiên cứu rộng rãi hơn nữa nhằm làm sáng tỏ quy mô cũng như giá trị, vị trí của ngôi chùa này trong lịch sử Phật giáo Trúc Lâm...
Tập tiếp theo là hành trình lên núi Am Ni thăm chùa Am Vãi, 1 trong số rất ít những ngôi chùa ở Bắc Giang còn tồn tại trên đỉnh núi cao./.
Tập 9: AM VÃI NGÀN MÂY
Trong hành trình phía Tây Yên Tử, đoàn làm phim đã về với những ngôi chùa trên các ngọn núi cao, tuy nhiên, phần lớn các chùa đó đều đã trở thành phế tích. Nhưng ở xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn cho thấy 1 cảnh quan khác, một ngôi chùa tọa lạc ở trên núi cao từ thời Lý – Trần đến nay hương khói vẫn hưng vượng...
Trước kia, để lên được Chùa, du khách phải đi bộ rất vất vả từ xã Tân Lập leo núi lên chùa. Hiện nay, địa phương đã mở một con đường mới, ô tô có thể lên được đến sân chùa nên việc đi lại thuận tiện hơn rất nhiều. Lên chùa phải đi khoảng 4 km trên sườn các dãy núi. Tuy đường lên chùa phải qua nhiều đèo dốc, song phong cảnh ở đây rất nên thơ. Lần này trở lại núi Am Ni, cảnh quan có nhiều sự mới mẻ, không chỉ là những dãy núi trải dài tít tắp cùng những đồi vải ngút tầm mắt mà còn là màu xanh của những đồi thông…
Sau quãng đường dài, chùa Am Vãi hiện ra huyền ảo, hoang sơ, thanh bình…
Chùa Am Vãi thuộc làng Biềng, xã Nam Dương, được dựng trên gần đỉnh sườn phía Bắc núi Am Vãi có độ cao hơn 700m so với mực nước biển. Núi Am Vãi nằm ngay ngã ba của hai con sông: sông Lục Nam và sông Bò. Cảnh sơn thuỷ hữu tình lại có thêm ngôi chùa cổ càng làm tăng thêm vẻ đẹp thanh nhã nơi đây. SáchĐại Nam nhất thống chívàLục Nam địa chícho biết, chùa Am Vãi là một ngôi chùa cổ nằm trong hệ thống chùa tháp thời Lý - Trần, thế kỷ XII – XIII, thời Trần nơi đây có công chúa nhà Trần đến tu nên mới gọi là chùa Am Vãi hay Am Ni tự, vì Vãi và Ni đều là từ chỉ người tu hành là nữ giới. Nhưng nhân dân ở đây cũng lưu truyền câu chuyện khác về cái tên đó. Theo dân gian truyền lại, chùa có tên gọi như hiện nay là vì các vị sư tu luyện ở đây đều được các già, các vãi cung cấp lương thực để sinh sống, mà không có ruộng tư điền để cấy trồng... Nay, chùa không có sư trụ trì, thay vào đó có các già, các vãi trông nom ngôi chùa. Điều này có phần nào đó giống với kiểu tu trước kia.
Khi mới khởi dựng, chùa có quy mô khá lớn, được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc khá hoàn chỉnh. Do sự xâm thực của thời gian, nên ngôi chùa xưa nay không còn. Chùa mới được nhân dân địa phương đóng góp công sức tiền của tu tạo lại trên nền đá cũ có bình đồ kiến trúc theo lối chữ nhất, nằm dựa lưng vào sườn núi, ngoảnh về hướng Đông Bắc, nơi có dãy Yên Tử mờ xa.
Những dấu xưa lưu lại ở đây vẫn còn khá nhiều. Trong đó có truyền tích về hang Tiền, hang Gạo. Truyền tích này có phần giống với truyền tích dấu chân Phật trên chùa Yên Mã, xã Bắc Lũng và giếng nước Động Thanh Thủy ở xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam. Điều đó hé lộ nơi này có các sư tu hành theo lối khổ hạnh. Lối tu hành này đến thời Trần thì chấm dứt. Vì từ thời Trần trở về sau, đạo Phật dần xuống làng xã chứ không ở trên núi cao cảnh đẹp nữa.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Những dấu tích ở chùa dù không còn với nguyên xưa nhưng cũng đủ để cho biết, sau thời Trần, đến thời nhà Lê, chùa Am Vãi vẫn tồn tại và còn được bảo tồn khá nguyên vẹn, hai ngôi tháp bằng đá có tên là Bảo tháp đá liên hoa còn lại cho đến ngày hôm nay đều được dựng vào thời nhà Lê, chứng tỏ là vào thời đó ngôi chùa vẫn còn khá sầm uất. Trong tháp có bài vị cổ ghi dòng chữ Hán: "Trúc Lâm viên tịch ma ha bất thương Tỳ Khưu Như Liên thiền sư hoá thân bồ tát cẩn vị”. Nghĩa là bài vị của một nhà sư thuộc thiền phái Trúc Lâm được tấn phong Tỳ Kheo Như Liên hóa thân vào hàng Bồ Tát đã nhập cõi niết bàn. Đến này,1 trong 2 ngôi bảo tháp đã bị hưu hại nặng.
Có một điều đặc biệt là, dù cùng thời với nhiều ngôi chùa khác ở trên núi cao nhưng chùa Am Vãi vẫn được trùng tu xây dựng và ngày đêm hương khói, cho dù chùa cách xa khu dân cư 6 đến 7 cây số, trong khi dưới làng chùa cũng được xây dựng khá nhiều. Điều này có được là do sự quan tâm của chính quyền địa phương và đặc biệt của là của nhân dân trong vùng. Khi có chùa, nơi này gần như lúc nào cũng có người trông nom, không có sư trụ trì thì lại là các già, các vãitrông nom. Nhưng sâu xa hơn có lẽ là lòng thành tâm hướng Phật của cư dân trong vùng.
PV: Sư Vãi trong chùa
PV: cán bộ văn hóa xã
Đến chùa Am Vãi, dấu xưa để lại còn có chiếc giếng cổ.Người dân ở đây cho biết, giếng không sâu nhưng có một điều lạ kì là không bao giờ cạn, bất kể mùa nào và số lượng người sử dụng là bao nhiêu. Không chỉ có những ngày lễ hội mà ngay cả những ngày bình thường trong năm ai lên chùa cũng đều monguống cho được một ngụm nước mát lành của giếng... Sau khi uống xong mọi người đều cócảm giác sảng khoái dễ chịu và thảnh thơi hơn, mọi lo toan trong cuộc sống thường nhật dường như được trút bỏ phần nào. Ngược lên núi phía sau chùa là một bãi đá, ở đó có dấu tích bàn chân Phật và bàn cờ tiên. Nếu đến Am Vãi vào mùa Đông hoặc mùa Xuân, nơi này cho thấy một cảnh tượng huyền ảo, mây giăng phủ mọi lối giống với trên đỉnh non thiêng Yên Tử. Nơi đây tĩnh tại, thật là cảnh thần tiên giữa chốn hồng trần...
Nghệ thuật chạm khắc trên tháp và nội dung bài vị lưu tại tháp, đặc biệt là sự xuất hiện của dấu chân Phật trên phiến đá trong khu vực chùa là những dấu tích quan trọng cho biết sự ra đời sớm của ngôi cổ tự này. Khi Thiền phái Trúc Lâm trở thành phái thiền tông độc lập, chùa Am Vãi là địa điểm đón nhận nhiều vị sư đến tu tại chùa. Nơi đây trở thành một phân nhánh quan trọng của thiền phái để kết nối với các trung tâm Phật giáo lớn, như: Vĩnh Nghiêm, Quỳnh Lâm và Yên Tử.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Đến với chùa Am Vãi mới thấy được những dấu xưa là những câu chuyện huyền thoại hay những di vật để lại đều đang được đánh thức, khiến cho ngôi chùa cổ trên núi cao cảnh đẹp tạo nên một thắng tích nổi tiếng cho quê hương Bắc Giang. Không gian thanh tịnh nơi ngàn mây như muốn xóa đi điềm mê, xua đi điềm tục, đánh thức cái tôi thánh thiện trong tâm khảm mỗi người./.
Tập 10: ĐẤT BỤT RỪNG THIỀN
Toàn bộ hành trình phía Tây dãy Yên Tử thuộc địa phận Bắc Giang qua Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động cho thấy từ thời Lý – Trần đã tồn tại một hệ thống chùa trên các dãy núi, thường ở độ cao từ 500 đến 800m so với mực nước biển. Sự hiện diện của các ngôi chùa đó cùng với những dấu tích đi kèm cho thấy, đạo Phật vào Bắc Giang khá sớm, với biểu hiện ban đầu là lối tu hành khổ hạnh trên các núi cao cảnh đẹp.
PV: Ông Trần Văn Lạng, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Sau khi Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu hành, mở ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với tư tưởng Phật tại tâm, thì lúc này việc tu Phật không theo lối khổ hạnh, hành xác như trước, đạo Phật được hoằng dương rộng rãi, các ngôi chùa dần dịch chuyển xuống các làng, xã... Yên Tử là nơi Trần Nhân Tông tu tập, nơi lưu giữ xá lị của Ngài sau viên tịch. Còn phía sườn Tây Yên Tử là con đường hoằng dương Phật pháp của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Do vậy, bên sườn Tây có hàng loạt các chùa, di tích liên quan chặt chẽ đến quá trình hình thành và hưng thịnh của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Do vậy, con đường tâm linh 293, đường Tây Yên Tử, hay con đường thủy sông Lục Nam mà đoàn làm phim đã đi là con đường về với đất phật.
Đất Phật, không phải là nhận định khi chúng tôi đã qua miền đất đó, mà được ghi trong Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm. Ngoài các đầu sách hàm chứa nội dung về kinh Phật, luật giới, sách thuốc thì trong mộc bản có những tác phẩm văn học bằng chữ Nôm có giá trị, trong đó có Thiền tông bản hạnh - Nhật trình Yên tử. Đây là tập thơ nói về sự ra đời và truyền bá thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong đó có đoạn:
…Tiêu dao quạt gió đèn trăng
Rằng: Mình đất Bụt ngả lưng rừng thiền
Định thần một giấc đã yên
Sáng ngày thong thảbước lên ngàn từ
Bốn thầy năm bầy nhởn nhơ
Hoa ngào bóng thánh gió đưa hương thần
Thơ ngâm hài bước đăng vân
Mây Đầu trời biếc chỉ chânđất vàng.
Đất Bụt là vì ở đó có Bụt, có tâm Bụt, có hiệu của Bụt. Đó là cõi cực lạc mà thiền phái Trúc Lâm Yên Tử quan niệm. Bởi vì thế mà trong Yên Tử Nhật Trình nhắc đi nhắc lại rất nhiều từ Bụt – Phật – Quan Âm – A Di Đà. Chính vì thế không chỉ ở ngay chùa Đồng Yên Tử – vua Trần cho khắc lên đá chữ Phật lớn mà còn đặt tên cho các núi ở dãy Yên Tử thuộc địa phận Bắc Giang, Hải Dương mang chữ Phật, chữ Bụt và các từ liên quan đến đạo Phật. Bởi vậy, dãy Yên Tử chính là đất Bụt, chính là rừng Thiền…
Phật và Bụt hiện hình vào sông núi Yên Tử mà thành Phật Sơn, núi Bụt, đèo Bụt, núi Quan Âm, núi Liên Sơn (tức Hoa sen), Thù Sơn, Độn Sơn, Tượng Sơn, Am Vãi, Hòn Tháp, Hòn Chùa…đều thuộc địa phận các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam.
PV: Ông Nguyễn Xuân Cần, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Phật Sơn là núi nằm ở địa phận xã Lục Sơn. Núi này từ xa đã nhìn như thấy đức Phật nằm nhập niết bàn, đầu hướng về phía tây. Về núi này, sách Đại Nam nhất thống chí chép: "Núi Phật Sơn ở xã Hổ Lao (nay thuộc xã Lục Sơn – Lục Nam) cách huyện Lục Ngạn 12 dặm về phía nam. Thế núi cao vót và bằng phẳng. Phía đông có Liên Sơn, phía tây có Định Sơn. Từ Phật Sơn có các mạch núi khác như núi Bụt, đèo Bụt, núi Am Ni, núi Liên Sơn, Thù Sơn, Độn Sơn, Tượng Sơn, Hòn Tháp, Hòn Chùa..... Trên dãy Phật Sơn có nhiều ngôi chùa cổ, ngoài các chùa bên sườn Đông Yên Tử thì ở sườn Tây có chùa Đồng Vành, chùa Đám Trì ở xã Lục Sơn.
PV: Ông Nguyễn Xuân Cần, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Trong hành trình lên các dãy núi mang tên nhà Phật, chúng tôi biết được những ngôi chùa trên đỉnh các núi đó như: Am Vãi ở núi Am Ni, Sơn Tháp ở Hòn Tháp, Bình Long ở Hòn Chùa, Đồng Vành ở Phật Sơn, ngoài ra là những ngôi chùa khác như Mã Yên, Hồ Bấc, Hòn Trứng… Những chùa, am ở Tây Yên Tử dù còn vẹn nguyên hay chỉ là phế tích cho thấy đều mang đặc trưng văn hóa kiến trúc tôn giáo đậm chất tâm linh, như: có cảnh quan thanh tĩnh, thiên nhiên đẹp, cái thần của chùa là sự kết hợp hữu cơ giữa các yếu tố sơn thủy, cây cối. Nét độc đáo của kiến trúc cảnh quan là thống nhất giữa cảnh quan tôn giáo trang nghiêm và tự do linh hoạt. Bên cạnh đó, thực vật tại đây phong phú bởi gắn với cuộc sống của tăng ni, nhờ Phật mà linh thiêng. Nghệ thuật sắp đặt đá và xử lý nước trong cảnh quan chùa, miếu cũng rất đặc sắc, thường có ao phóng sinh thể hiện tư tưởng từ bi...
Từ Phật Sơn đẩy ra núi Bụt, Đèo Bụt ở nơi giáp ranh giữa Lục Nam và Sơn Động. Nếu như trước kia Đèo Bụt là những cánh rừng nguyên sinh xanh tốt, ít người biết tới thì nay, nhờ con đường Tâm linh mà Đèo Bụt hiện hình rõ ràng hơn, uốn lượn giữ núi rừng Phật Sơn....
Hành trình bên sườn Tây Yên Tử là hành tình đến với các ngôi chùa, đồng thời cũng là hành trình đến với các dãy núi.... Từ Phật Sơn sang Lục Ngạn lại có mạch núi Quan Âm, có tên nôm là núi Am Ni. Núi này sách Đại Nam thống chí cũng nói đến: "Núi Am Ni ở xã Nam Điện, phía nam huyện Lục Ngạn, mạch núi từ Phật Sơn, Thù Sơn kéo đến, cao hơn nghìn trượng. Phía tả có giếng, nước trong không bao giờ cạn. Cạnh núi có hai cái bồn bằng đá. Trên núi có nền chùa cũ...
Sau khi chùa dịch chuyển xuống các làng lại tạo thành một tuyến từ núi xuống đồng bằng. Do vậy, giờ đây, dọc phía Tây Yên Tử, các chùatrên núi và dưới đồng bằng tạo thành một hệ thống di tích. Hệ thống này đang dần được quan tâm đúng mức, đặc biệt là ở chốn tổ Vĩnh Nghiêm và Khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử. Qua hơn 3 năm triển khai xây dựng Khu văn hóa tâm linh- sinh thái Tây Yên Tử, các hạng mục công trình chính như chùa Hạ, chùa Thượng, khu Quảng trường cơ bản hoàn thành. Đồng thời, tuyến đường Tây Yên Tử và các tuyến nhánh cơ bản hoàn thành, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến với Khu văn hóa tâm linh- sinh thái Tây Yên Tử..... Những giá trị của kí ức đang dần đượctỏa sáng.
Hội Tây Yên Tử đã được mở, là bước ngoặt mới cho du lịch Bắc Giang.... Bà con nô nức, phật tử hoan hỉ......Với cuộc hành trình tìm về với những dấu xưa của Tây Yên Tử, chúng tôi cũng vui mừng với sự kiện này nhưng vẫn còn đó những trăn trở về phế tích của những ngôi cổ tự trên núi cao. Về lâu dài cần có những ứng xử phù hợp để gìn giữ những dấu xưa tích cũ, cũng là gìn giữ lịch sử Phật giáo của vùng đất Bụt rừng Thiền này.
PV: Ông Nguyễn Xuân Cần, Nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang
Gần 100km đường tỉnh 293, đường Tây Yên Tử - kết nối các ngôi chùa phía Tây dãy Yên Tử, cũng là kết nối những dãy núi Bụt, những vùng đất Thiền. Trong hành trình về với miền đất Phật, dù gian nan nhưng đã cho chúng tôi thật nhiều cảm xúc. Cảm xúc đó có thể đến từ những núi cao cảnh đẹp, có thể từphế tích của những ngôi chùa còn đang hoang lạnhgiữa đại ngàn, có thể từ những ngôi chùa đang ngày đêm hương khói... Tất cả những xúc cảm đọng lại cho chúng tôi thấy được cái tâm thiền của mỗi người, cho chúng tôi biết được những giáo lí, những tư tưởng của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử đã, đang và sẽ tiếp tục thấm sâu trong tâm thức người dân và trong từng mạch núi, từng vùng đất Tây Yên Tử.
LOẠT BÀI VỀ GIẢI QUYẾT CHẾ DỘ ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
Giải B, năm 2018
Nhóm tác giả: Thùy Ninh, Thu Hằng
Thể loại: Điều tra
GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ NGƯỜI CÓ CÔNG ĐỐI VỚI
CỤ TRẦN THỊ BÉ: CẦN THẤU TÌNH, ĐẠT LÝ
B |
áo Bắc Giang nhận thư công dân phản ánh cụ Trần Thị Bé (SN 1918) ở xã Phồn Xương (Yên Thế) có công nuôi dưỡng, giúp đỡ cán bộ cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa nhưng đến nay chưa được giải quyết chế độ ưu đãi người có công. Vì sao đề nghị của cụ Bé chưa được giải quyết?
Ông Nguyễn Minh Thuộc là con rể của cụ Ngô Văn Sang (SN 1919) và cụ Trần Thị Bé (SN 1918) ở thôn Mạc, xã Phồn Xương thông tin: Do có công nuôi dưỡng và giúp đỡ một số cán bộ cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa nên ngày 13/12/1967, gia đình mẹ vợ ông được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng "Có công với nước”. Trên Bằng ghi tặng "Gia đình ông Ngô Văn Sang, xã Hữu Xương (nay là Phồn Xương), huyện Yên Thế, đã hăng hái đấu tranh chống đế quốc, tích cực giúp đỡ và bảo vệ cách mạng”. Năm 1980, Ty Thương binh và Xã hội Hà Bắc cấp Giấy chứng nhận gia đình có công với cách mạng kèm theo danh sách các thành viên trực tiếp có công gồm: "Ông Ngô Văn Sang, cụ Hoàng Thị Quán, bà Trần Thị Bé”- là mẹ và vợ cụ Sang. Hiện cụ Bé còn lưu giữ Bằng và Giấy chứng nhận này.
Theo gia đình, có thời gian cả ba thành viên trên đã được hưởng chế độ trợ cấp hằng tháng. Hiện hai người đã mất, chỉ còn cụ Bé năm nay 100 tuổi. "Đối chiếu với quy định pháp luật hiện hành, thấy mẹ tôi có đủ điều kiện hưởng chế độ ưu đãi người có công giúp cách mạng nên gia đình làm hồ sơ có xác nhận của Hội đồng Thi đua- Khen thưởng huyện Yên Thế, tháng 4/2017 đã gửi về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH). Tuy nhiên, đến nay hồ sơ chưa được xét duyệt”- Ông Thuộc cho biết.
Ông Phạm Trọng Ý, Trưởng phòng Người có công (Sở LĐ-TB&XH) cho hay: Nhận đơn của ông Thuộc, Phòng đã phối hợp với các cơ quan liên quan tìm hồ sơ khen thưởng lưu tại tỉnh, huyện nhưng chưa thấy. Theo quy định tại Nghị định 31/2013/NĐ-CP của Chính phủ, hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi người có công giúp đỡ cách mạng gồm: "Giấy tờ chứng minh đã được khen tặng vì thành tích giúp đỡ cách mạng; quyết định trợ cấp của Giám đốc Sở LĐ-TB&XH”.
Do cụ Bé không có tên trong Bằng "Có công với nước” nên việc xem xét giải quyết chế độ thực hiện theo Thông tư 05 năm 2013 của Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn thủ tục lập, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân. Điều 38 Thông tư 05 quy định: "Trường hợp người có công với cách mạng có tên trong hồ sơ khen thưởng nhưng không có tên trong Bằng "Có công với nước”, huân, huy chương kháng chiến của gia đình thì kèm theo giấy xác nhận của cơ quan thi đua - khen thưởng cấp huyện”. Tuy nhiên, Hội đồng Thi đua- Khen thưởng huyện Yên Thế cũng không lưu được hồ sơ khen thưởng mà chỉ căn cứ vào giấy tờ cụ Bé cung cấp để xác nhận. Với lý do này, tại công văn hướng dẫn nghiệp vụ gửi Sở LĐ-TB&XH ngày 26-6-2017, Cục Người có công, Bộ LĐ-TB&XH cho rằng chưa đủ cơ sở giải quyết chế độ đối với cụ Trần Thị Bé.
Ngày 28/6, Sở LĐ-TB&XH tiếp tục gửi công văn tới Ban Thi đua- Khen thưởng T.Ư đề nghị xác nhận việc khen thưởng đối với cụ Trần Thị Bé. Ngày 5/7 vừa qua, Ban Thi đua- Khen thưởng T.Ư có công văn trả lời không tìm thấy tên Trần Thị Bé trong hồ sơ khen thưởng của gia đình cụ Ngô Văn Sang.
Ông Lê Anh Thơ, nguyên cán bộ bộ phận hồ sơ Ty Thương binh và Xã hội Hà Bắc, người viết giấy chứng nhận cho gia đình cụ Sang năm 1980 hiện đã nghỉ hưu khẳng định, chữ viết trong "Giấy chứng nhận gia đình có công với cách mạng- Gia đình ông Ngô Văn Sang” ngày 1-10-1980 là chữ viết của mình. Theo ông Thơ, việc xác định đối tượng người có công do hội đồng thi đua- khen thưởng ba cấp xã, huyện và tỉnh và các cơ quan liên quan xét duyệt rất chặt chẽ, có xác nhận của cán bộ được giúp đỡ và nhân dân sở tại… Hồ sơ bên thi đua- khen thưởng chuyển sang ghi thế nào ông viết thế ấy, không thể tự viết thêm tên cụ Bé vào được.
Nói về sự việc này, ông Nguyễn Ngọc Sơn, Phó Chủ tịch UBND huyện Yên Thế bày tỏ quan điểm: "Theo tôi, dù hồ sơ khen thưởng gốc không còn thì giấy chứng nhận của Ty Thương binh và Xã hội cũng có thể coi là một căn cứ để công nhận cụ Trần Thị Bé là người có công giúp đỡ cách mạng”.
Hồ sơ, thủ tục công nhận gia đình cụ Sang có công với nước được thực hiện theo Quyết định 208-CP ngày 20/7/1977 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư 16 của Bộ Thương binh và Xã hội, hướng dẫn thi hành chế độ đãi ngộ đối với những người và gia đình có công với cách mạng (nay đã hết hiệu lực thi hành). Các văn bản này nêu rõ: "Gia đình có công với cách mạng là gia đình có chủ gia đình và ít nhất là một người thân nữa trở lên (bố, mẹ, vợ, chồng hoặc con…) cùng sống chung trong gia đình lúc đó đã trực tiếp giúp đỡ cách mạng. Trong gia đình có công với cách mạng, chỉ người có công chủ yếu được đứng tên trong quyết định khen thưởng...”. Gia đình cụ Ngô Văn Sang được tặng Bằng "Có công với nước” đương nhiên ngoài chủ gia đình là cụ Sang còn có thêm thành viên khác. Được biết cụ Bé kết hôn với cụ Sang từ năm 16 tuổi.
Việc chưa tìm thấy hồ sơ khen thưởng đối với gia đình cụ Ngô Văn Sang là lỗi lưu trữ của cơ quan chuyên môn liên quan. Do đó, Sở LĐ-TB&XH cần xem xét, nghiên cứu, vận dụng linh hoạt các quy định, bảo đảm giải quyết đề nghị của cụ Trần Thị Bé và gia đình thấu tình đạt lý, không để người có công phải thiệt thòi.
GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ NGƯỜI CÓ CÔNG Ở XÃ XUÂN HƯƠNG (LẠNG GIANG): VÌ SAO HỒ SƠ LIỆT SỸ TRỊNH VĂN THƯỜNG BỊ "OM” GẦN HAI NĂM?
Báo Bắc Giang số ra ngày 15/8 đăng bài "Giải quyết chế độ người có công ở xã Xuân Hương (Lạng Giang): Cán bộ tắc trách, người dân mòn mỏi đợi chờ”. Nội dung phản ánh sự thiếu trách nhiệm của cán bộ xã trong giải quyết chế độ người có công cho liệt sĩ Trịnh Văn Thường. Xác minh tiếp vụ việc cho thấy nguyên nhân chậm muộn còn là do cán bộ giải quyết chính sách huyện, tỉnh liên quan cũng chưa làm hết trách nhiệm với thân nhân người có công.
Ông Trịnh Trọng Tiến ở thôn Lẻ, xã Xuân Hương có hai người chú ruột là liệt sĩ. Một người hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ đã được cấp Bằng Tổ quốc ghi công. Còn người chú là liệt sĩ Trịnh Văn Thường (SN 1933) tham gia kháng chiến chống Pháp năm 1949, hy sinh năm 1954 tại chiến trường Điện Biên Phủ, đến nay chưa được cấp bằng. Liệt sĩ Thường không có vợ con nên việc thờ cúng được giao cho cháu là ông Tiến. Tháng 9/2016, ông Tiến làm hồ sơ đề nghị cấp Bằng Tổ quốc ghi công cho liệt sĩ Thường. Tại buổi làm việc với Phòng Chính trị, Bộ CHQS tỉnh mới đây, phóng viên nhận được thông tin đơn vị đã tiếp nhận hồ sơ của liệt sĩ Thường và đang xem xét giải quyết. Điều bất ngờ là hồ sơ do Ban CHQS huyện Lạng Giang chuyển lên (?!). Đại úy Đỗ Khắc Lập, Trợ lý chính sách cho biết, đơn vị tiếp nhận hồ sơ của liệt sĩ Thường vào ngày 1/11/2016. Đáng chú ý, người ký công văn đề nghị là Thượng tá Nguyễn Mạnh Thắm- Chính trị viên Ban CHQS huyện Lạng Giang.
Ngoài ra, trong biên bản họp hội đồng xác nhận người có công là liệt sĩ Trịnh Văn Thường do UBND xã Xuân Hương tổ chức ngày 30/10/2016, ông Nguyễn Văn Lực, Chỉ huy trưởng Ban CHQS xã Xuân Hương là thành viên "cứng” (có chữ ký của ông Lực ở cuối biên bản). Vậy mà ông Thắm, ông Lực đều khăng khăng trả lời công dân là chưa nhận được hồ sơ của liệt sĩ Trịnh Văn Thường?.
Tìm hiểu được biết, do quá trình giải quyết, cán bộ Ban CHQS huyện Lạng Giang và xã Xuân Hương không thực hiện lưu hồ sơ, vào sổ sách theo quy định dẫn tới sự việc kể trên. Đáng trách là, quá trình hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp Bằng Tổ quốc ghi công cho liệt sĩ Thường, ông Tiến đã được cán bộ Ban CHQS huyện Lạng Giang và xã Xuân Hương "tận tình” hướng dẫn làm thủ tục. Gia đình ông Tiến phải hai lần lên Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Điện Biên để xin xác nhận trường hợp hy sinh của liệt sĩ Thường theo yêu cầu của cán bộ chính sách Ban CHQS huyện Lạng Giang.
Là người ký văn bản chuyển hồ sơ của liệt sĩ Thường lên Bộ CHQS tỉnh, thế nhưng khi công dân hỏi, phóng viên Báo Bắc Giang trao đổi về sự việc này, Chính trị viên Thắm trước sau đều khẳng định chưa bao giờ thấy hồ sơ này, thậm chí còn có thái độ không đúng mực...
Theo quy định tại Thông tư của Bộ Quốc phòng, hướng dẫn về trình tự, thủ tục xác nhận; tổ chức thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng thuộc trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, thời gian tiếp nhận, giải quyết hồ sơ của Ban CHQS cấp huyện là 10 ngày làm việc, của Bộ CHQS cấp tỉnh là 30 ngày làm việc, kể từ khi tiếp nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Hai cơ quan trên có trách nhiệm kiểm tra, xem xét thông tin lưu trữ nội dung có liên quan về đối tượng; phối hợp xác minh… Nếu thấy đối tượng đủ điều kiện thì hoàn thiện hồ sơ, báo cáo cấp trên trực tiếp… Quy định là vậy, nhưng hồ sơ của liệt sĩ Thường chuyển về Bộ CHQS tỉnh gần hai năm vẫn chưa được giải quyết. Nếu công dân không phản ánh thì chưa biết vụ việc sẽ kéo dài bao lâu?.
Trao đổi nội dung này, Đại úy Đỗ Khắc Lập cho hay: Do liệt sĩ Thường hy sinh trong trường hợp mất tích (không tìm thấy thi thể) nên cần phải có xác nhận của đơn vị cũ. Thủ tục này mất nhiều thời gian, đây là một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm muộn. Bên cạnh đó, cán bộ này cũng thừa nhận phần lỗi của mình trong việc chưa tích cực, sát sao, khi có công văn hồi âm của đơn vị liên quan đã không xem xét giải quyết ngay, đợi gộp với các trường hợp khác mới xử lý. Nghiên cứu hồ sơ của liệt sĩ Thường cho thấy, Phòng Chính trị, Bộ CHQS tỉnh gửi xác minh hai nơi, thời gian các đơn vị hồi âm lại tổng cộng chỉ mất hơn 1 tháng (?!).
Được biết, ngay sau khi Báo Bắc Giang có bài phản ánh, lãnh đạo Phòng Chính trị, Bộ CHQS tỉnh đã chỉ đạo phòng, ban chuyên môn hoàn tất thủ tục liên quan. Thời điểm này, hồ sơ liệt sĩ Trịnh Văn Thường đã chuyển đến Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị xem xét, giải quyết.
Không riêng trường hợp liệt sĩ Trịnh Văn Thường, ở xã Xuân Hương hiện có gần chục liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, thân nhân của họ đã hoàn thiện hồ sơ từ lâu nhưng đến nay hầu hết chưa được nhận Bằng Tổ quốc ghi công. Đề nghị Bộ CHQS tỉnh và Ban CHQS huyện Lạng Giang sớm rà soát, kiểm tra các hồ sơ người có công, chỉ đạo bộ phận chuyên môn giải quyết đúng thời gian quy định, không để tái diễn tình trạng tắc trách như vụ việc liệt sĩ Thường. Qua đó, bảo đảm chính sách ưu đãi với người có công được thực hiện nghiêm túc, đúng tinh thần tri ân, đền ơn, đáp nghĩa mà Đảng, Nhà nước đề ra, không để người có công và thân nhân phải chịu thiệt thòi, bức xúc. Đồng thời xem xét xử lý nghiêm cán bộ thiếu trách nhiệm trong thi hành công vụ, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật nghiêm minh.
GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ NGƯỜI CÓ CÔNG Ở XÃ XUÂN HƯƠNG (LẠNG GIANG): CÁN BỘ TẮC TRÁCH, NGƯỜI DÂN MÒN MỎI ĐỢI CHỜ
Nộp hồ sơ đề nghị cấp bằng Tổ quốc ghi công cho người thân hy sinh từ hơn 60 năm trước về xã, rồi chờ đợi mãi không thấy hồi âm, ông Trịnh Trọng Tiến hỏi và rất bức xúc khi nghe cán bộ chuyên môn trả lời chưa nhận được?! Đây là sự việc xảy ra tại xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang (Bắc Giang).
Ông Trịnh Trọng Tiến (SN 1960) ở thôn Lẻ, xã Xuân Hương thông tin: "Ông bà nội tôi có ba người con tham gia kháng chiến chống Pháp và Mỹ, hai người hy sinh, một người bị thương. Trong đó, ông Trịnh Văn Điều hy sinh năm 1967 đã được Nhà nước tặng bằng Tổ quốc ghi công. Còn ông Trịnh Văn Thường, nhập ngũ năm 1949, hy sinh năm 1954 trong chiến dịch Điện Biên Phủ chưa được cấp bằng.
Được biết, ông Thường không có vợ con, việc thờ cúng được gia đình giao cho ông Trịnh Trọng Tiến. "Thấy chú hy sinh đã hơn 60 năm vẫn chưa được cấp bằng Tổ quốc ghi công trong khi hầu hết liệt sĩ ở xã đều đã có, cách đây vài năm, tôi mới tìm hiểu thủ tục làm hồ sơ đề nghị. Sau đó tôi phải đi lại nhiều lần lên xã, huyện, thậm chí vài lần lên tỉnh Điện Biên mới xin được giấy xác nhận theo đúng yêu cầu của cán bộ giải quyết chính sách Ban Chỉ huy quân sự (CHQS) huyện Lạng Giang để hoàn thiện thủ tục theo quy định. Giữa năm 2017, tôi trực tiếp nộp hồ sơ cho anh Nguyễn Văn Lực, Chỉ huy trưởng Ban CHQS xã nhưng chờ đợi mãi không thấy hồi âm”- ông Tiến kể lại.
Tuy nhiên, trao đổi với chúng tôi vào ngày 7/8 vừa qua, ông Nguyễn Văn Lực, Chỉ huy trưởng Ban CHQS xã Xuân Hương và ông Nguyễn Mạnh Thắm, Chính trị viên Ban CHQS huyện Lạng Giang đều khẳng định chưa bao giờ nhìn thấy hồ sơ của liệt sĩ Trịnh Văn Thường. Biết tin này, ông Tiến rất bức xúc và luôn khẳng định đã nộp hồ sơ cho anh Lực. Ông Tiến cho hay: "Trước khi làm thủ tục, tôi nhiều lần đến gặp anh Lực nhờ hướng dẫn. Thà anh ấy nói do sơ ý để thất lạc, chứ bảo gia đình không nộp hồ sơ nghe vô cảm và thiếu trách nhiệm quá!”.
Trao đổi với phóng viên, ông Phạm Văn Thắng, Bí thư Đảng ủy xã Xuân Hương cho biết, một số lần thấy ông Tiến cầm giấy tờ lên UBND xã làm hồ sơ đề nghị cấp bằng Tổ quốc ghi công cho liệt sĩ Trịnh Văn Thường. Thực tế, ông Trịnh Trọng Tiến năm nay mới 58 tuổi, năng lực hành vi bình thường, không mắc bệnh gì về trí nhớ, không lẽ ông Tiến chưa nộp hồ sơ cho cơ quan chức năng lại đi khiếu nại việc chậm muộn giải quyết?.
Để làm rõ nghi vấn, phóng viên tiếp tục xác minh và phát hiện cùng đợt làm hồ sơ với ông Tiến còn nhiều trường hợp khác, trong đó có gia đình ông Dương Minh Thà ở thôn Hoa. Ông Thà có người anh hy sinh trong kháng chiến chống Pháp chưa được cấp bằng Tổ quốc ghi công. Khi ông Thà làm hồ sơ đã được Chỉ huy trưởng Ban CHQS xã Nguyễn Văn Lực cho mượn tờ xác nhận của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Điện Biên đối với liệt sĩ Trịnh Văn Thường. Trước mặt phóng viên, ông Thà trao trả ông Tiến tờ giấy này và ghi bút tích khẳng định anh Lực cho mình mượn. Ngoài ra ông Thà còn thông tin thêm, cách đây không lâu, anh Lực còn cho biết hồ sơ của ông và ông Tiến nộp đã được gửi lên huyện.
Ngày 8/8, nhóm phóng viên trở lại UBND xã Xuân Hương làm việc với ông Nguyễn Văn Lực với sự có mặt của Bí thư Đảng ủy xã Phạm Văn Thắng. Tại đây, anh Lực vẫn khẳng định không nhận hồ sơ ông Tiến gửi nhưng lại thừa nhận cho ông Thà mượn tờ giấy xác nhận trong hồ sơ của liệt sĩ Thường. Ông Lực còn cho hay đã hướng dẫn ông Tiến làm hồ sơ rồi phô tô 5 bản đưa lại cho gia đình lấy chữ ký ở thôn xóm nhưng không thấy nộp lại (?!). Khi phóng viên hỏi chưa nhận hồ sơ của ông Tiến, sao lại có giấy xác nhận hy sinh của liệt sĩ Thường thì ông Lực trả lời vòng vo, không ăn nhập với câu hỏi.
Liệt sĩ Trịnh Văn Thường tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và hy sinh hơn 60 năm nay chưa được cấp bằng Tổ quốc ghi công, đây là tồn tại do lịch sử để lại và là thiếu sót trong công tác giải quyết chế độ chính sách đối với người có công và thân nhân họ của chính quyền địa phương và cơ quan chức năng. Giả sử ông Tiến chưa gửi lại hồ sơ (như ông Lực nói) thì Ban CHQS xã phải gặp gỡ gia đình nắm tình hình, nguyên nhân, hướng dẫn hoàn thiện thủ tục. Đằng này, Ban CHQS, UBND xã đã thiếu sâu sát, bỏ quên đối tượng người có công. Cá nhân ông Lực có dấu hiệu thiếu trung thực, không làm tròn nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn thực hiện chế độ chính sách người có công.
Được biết, cùng với liệt sĩ Thường, trên địa bàn xã Xuân Hương còn 10 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp chưa được tặng bằng Tổ quốc ghi công. Năm 2015, UBND xã đã lập danh sách các liệt sĩ đề nghị cơ quan chức năng xem xét. Hiện đã có 8 hồ sơ chuyển lên huyện, tỉnh; một hồ sơ đang bổ sung thông tin và trường hợp liệt sĩ Trịnh Văn Thường. Đề nghị Ban CHQS huyện Lạng Giang, UBND xã Xuân Hương sớm kiểm tra làm rõ, có hình thức xử lý cán bộ có thái độ tắc trách, thờ ơ, vô cảm trong tiếp nhận giải quyết chính sách cho gia đình liệt sĩ Thường. Đồng thời chỉ đạo bộ phận chuyên môn hướng dẫn gia đình hoàn thiện hồ sơ trình cấp thẩm quyền truy tặng bằng Tổ quốc ghi công cho liệt sĩ Trịnh Văn Thường, bảo đảm chế độ, chính sách của Nhà nước, không để thân nhân người có công phải mòn mỏi chờ đợi, bức xúc.
NỖI NIỀM "THƯƠNG BINH” KHÔNG SỔ
Họ là những người lính tham gia chiến đấu ở chiến trường Lào, ngày chiến thắng trở về, cơ thể mang nhiều thương tích, thậm chí vẫn còn mảnh đạn găm trong người. Tuy vậy, do vướng mắc về hồ sơ, đến giờ họ vẫn chưa được hưởng chính sách dành cho thương binh.
Thiệt thòi vì giấy tờ thất lạc
Năm 1970, ông Nguyễn Văn Mừng (SN 1952), thôn Bãi Cả và ông Nguyễn Văn Rộn (SN 1949) thôn Non Thần, xã Bình Sơn (Lục Nam) lên đường nhập ngũ. Sau khi huấn luyện, hai ông sang chiến đấu tại Xiêng Khoảng (Lào), biên chế tại Tiểu đoàn 7, Đoàn 959- Mặt trận 31 (nay là Tiểu đoàn BB2- Trung đoàn 866- Sư đoàn 31). Quá trình chiến đấu, ông Mừng bị nhiều vết thương ở chân, ông Rộn bị 6 vết thương trên người, ngoài ra còn bị sức ép bom, đạn pháo. Hiện, ông Mừng vẫn còn mảnh đạn trong cơ thể. Với những thành tích trong chiến đấu, hai ông được tặng thưởng nhiều huân, huy chương; ông Rộn được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì.
Chiến tranh ác liệt, quân số, lãnh đạo các đơn vị thay đổi liên tục. Sau khi bị thương, chuyển đơn vị và tham gia các trận đánh mới, đơn vị chưa kịp làm chế độ chính sách; việc lưu trữ hồ sơ không tốt nên khi phục viên về địa phương, các cựu binh đều không còn giấy chứng thương. "Cùng Trung đoàn với chúng tôi có hai đồng đội nữa ở xã Bình Sơn hy sinh, ngày chiến thắng, còn sống trở về là may mắn lắm, tôi đâu để ý việc phải lưu giữ giấy xác nhận thương tật cẩn thận. Sau này khi Nhà nước triển khai thực hiện chế độ ưu đãi với người có công, tôi đã nhiều lần dò tìm đơn vị cũ để xin lại giấy tờ nhưng nghe nói đã giải thể”- ông Mừng bộc bạch.
Cách đây 6 năm, qua đồng đội, biết đơn vị chiến đấu năm xưa sáp nhập vào đơn vị khác nhưng vẫn bố trí bộ phận tiếp nhận, giải quyết chế độ chính sách, ông Mừng cùng con trai ông Rộn lặn lội vào nơi đơn vị ở tỉnh Bình Định xin xác nhận thương tật. May mắn là hồ sơ lưu trữ của đơn vị cũ vẫn còn bản danh sách thương binh Trung đoàn 866 giai đoạn 1969- 1973. Được đơn vị xác nhận, các cựu binh đã làm hồ sơ chuyển lên cơ quan chức năng. Tuy vậy, hồ sơ chuyển đi rồi bị trả lại vì chưa hợp lệ. Đến nay, hai ông chưa được hưởng chế độ thương binh.
Tương tự, ông Nguyễn Văn Khái, thôn Hổ Lao, xã Lục Sơn (Lục Nam), cùng đơn vị với ông Mừng năm đó cũng bị thương trong chiến đấu hiện chưa được giải quyết chế độ. Ông Lý Văn Chính, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Sơn cho biết: Hồ sơ của hai ông Rộn và Mừng sau khi hoàn tất được niêm yết công khai nhiều ngày tại địa phương, không ai có ý kiến gì. Họ là người thật, việc thật, chỉ vì giấy tờ thương tật gốc bị thất lạc nên bao năm nay chưa được hưởng chế độ theo quy định. Trước sự việc trên, một số người còn gọi các ông là những "thương binh” không sổ.
Nỗi niềm mỗi tháng 7 về
Trở về địa phương, do bị thương nên sức khỏe của ông Mừng giảm sút nghiêm trọng, mắc nhiều bệnh tật, hoàn cảnh rất khó khăn. Bà Hoàng Thị Năng, vợ ông Mừng kể: "Ngày ở chiến trường ra, ông ấy ốm yếu lắm, tôi thương mới nên duyên. Sau khi lấy nhau, vết thương tái phát, ông ấy chỉ nằm một chỗ, có năm đi viện suốt, nhiều lần tưởng chết. Theo bà Năng, ông Mừng bệnh tật phần do ảnh hưởng vết thương, phần vì mặc cảm chuyện "thương binh” không sổ.
Rời quân ngũ, ông Rộn về tham gia công tác tại xã, đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng, như: Bí thư Đoàn xã, Trưởng Công an, Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND xã Bình Sơn... đến năm 1995 mới nghỉ công tác. Năm 2010, ông bị tai biến mạch máu não, từ đó đến nay phải ngồi xe lăn.
Các cựu binh tâm tư, họ là người thật việc thật, thương tích chiến tranh còn mang trên người nhưng lại chưa thể chứng minh mình là thương binh?! Mỗi tháng 7 về, chứng kiến cộng đồng xã hội tri ân thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công mà họ không khỏi chạnh lòng. Cũng vì thế, dù biết nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng, ông Mừng vẫn cố giữ lại mảnh đạn ở vết thương nơi chân trái, với hy vọng một lúc nào đó được xem xét, giải quyết chế độ.
Sớm giúp các cựu binh hoàn thiện thủ tục
Các cựu binh cũng thừa nhận, việc họ chưa được hưởng chế độ có phần lỗi do giấy tờ thất lạc. Song thái độ chưa trách nhiệm của cán bộ cơ quan chuyên môn cũng khiến hồ sơ chậm được hoàn thiện. Ông Rộn nói: "Hồ sơ cơ quan chức năng trả lại chúng tôi chỉ thông tin là giấy xác nhận chứng thương thiếu căn cứ (cấp phòng không ký được). Nhưng phải làm lại như thế nào, lấy xác nhận của cấp nào mới hợp lệ… thì lại không hướng dẫn”. Cả ba cựu binh giờ tuổi cao, người ngồi một chỗ, người sức yếu, việc tự đi lại làm thủ tục hồ sơ gặp khó khăn.
Làm việc với chúng tôi, Thượng tá Nguyễn Ngọc Trung, Chính trị viên Ban CHQS huyện Lục Nam cho biết: Quá trình thực hiện thủ tục giải quyết chế độ cho các cựu binh gần đây có những khó khăn, chậm muộn là do hướng dẫn làm hồ sơ ở cấp xã còn hạn chế; các vụ làm giả hồ sơ hưởng chế độ thương binh trên địa bàn xảy ra không ít. Do đó, công tác thẩm định hồ sơ, xác minh tại các đơn vị cũ nơi đối tượng công tác phải thực hiện thận trọng, kỹ lưỡng…
Được biết, sau khi nắm thông tin về ba cựu binh trên, Ban CHQS huyện Lục Nam đã chỉ đạo bộ phận liên quan, liên hệ hướng dẫn các cựu binh làm thủ tục. Thượng tá Trung nói: "Đơn vị sẽ có công văn gửi đơn vị cũ của các đối tượng nhờ cung cấp một số giấy tờ cần thiết, tạo thuận lợi hoàn thiện hồ sơ để sớm được xem xét hưởng chế độ theo quy định”.
Cụ Trần Thị Bé được giải quyết chế độ người có công
Báo Bắc Giang ngày 1/8/2018 có bài "Giải quyết chế độ người có công đối với cụ Trần Thị Bé: Cần thấu tình, đạt lý”.
Nội dung phản ánh cụ Trần Thị Bé ở xã Phồn Xương (Yên Thế), là người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình đã được tặng Bằng "Có công với nước” từ năm 1967 nhưng chưa được giải quyết chế độ ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân do cơ quan chức năng không lưu giữ được hồ sơ khen thưởng của gia đình; cụ Bé không được ghi tên trong Bằng "Có công với nước” mà chỉ có tên trong Giấy chứng nhận của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội năm 1980 (gia đình còn lưu giữ)…
Sau khi Báo đăng, cơ quan liên quan đã nghiên cứu, xem xét quy định pháp luật giải quyết chế độ, bảo đảm quyền lợi của cụ Bé. Ngày 15-8, ông Nguyễn Thế Dũng, Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, đơn vị vừa ban hành Quyết định 3176, về việc trợ cấp hằng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng là cụ Trần Thị Bé.Cụ Bé được hưởng trợ cấp từ ngày 1/4/2017 (thời điểm gia đình có đơn), mức trợ cấp là 1.318.000 đồng/tháng; từ ngày 1/7/2017, hưởng mức 1.417.000 đồng/tháng và từ ngày 1/7/2018 trở đi hưởng 1.515.000 đồng/tháng. Hiện quyết định đã được trao cho gia đình.
P
TỰ SOI- TỰ SỬA – SỨC LAN TỎA TỪ NGHỊ QUYẾT TW4, KHÓA XII
Giải B, năm 2017
Tác giả: Giang Nam
Thể loại: Phóng sự Phát thanh
N |
hìn nhận rõ những khuyết điểm, tồn tại ,hạn chế trong công việc cũng như trong lối sống, tác phong, mối quan hệ với đồng nghiệp, với nhân dân để sữa chữa, khắc phục không phải là việc dễ thực hiện đối với mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Tại tỉnh Bắc Giang, sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa 12 đã cho thấy sức lan tỏa mạnh mẽ từ nhận thức, hành động của mỗi cán bộ, đảng viên về tinh thần phê và tự phê, tự soi vào khuyết điểm và tự sửa, ngăn chặn kip thời biểu hiện suy thoái. Câu chuyện mà mà quý vị và các bạn nghe sau đây sẽ cho thấy điều đó.
Trước mặt tôi ông Nguyễn Minh Chiến, có thời gian từng là Tỉnh ủy viên, Hiệu trường trường Chính trị tỉnh Bắc Giang. Cách đây 5 năm do buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra các vi phạm đã khiến ông Chiến bị cách chức vụ trong Đảng. Những tưởng vấp ngã này khiến ông Chiến mặc cảm, nản chí…Nhưng không, với suy nghĩ "sai thì sửa” " có khuyết điểm thì phải khắc phục”, ông Chiến đã từng bước vượt lên chính mình. Ông Chiến tâm sự
Mong muốn đi cơ sở, xông vào việc khó của ông Chiến được tổ chức chấp nhận. ông tham gia Tổ vận động, tuyên truyền phát triển tổ chức đảng và đảng viên khu công nghiệp. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn ở thời điểm ấy. Bởi tại Bắc Giang, công tác phát triển đảng viên trong khu công nghiệp gần như con số không. Thử thách rất lớn. Đòi hỏi ý chí và lòng quyết tâm lớn. Thực tế đã không ít người thất bại. Ông Chiến cho biết:
(Băng: Rất gian nan…..Nhưng không có gì là khó, quyết tâm sẽ làm được)
Cho đến giờ, ông Chiến không nhớ nổi mình bao ngày, đêm bám trụ khu công nghiệp, nắng cũng như mưa để gặp gỡ chủ doanh nghiệp, trong đó có cả người nước ngoài để xây dựng tổ chức đảng. Khó khăn chồng chất…Doanh nghiệp họ chỉ quan tâm đến kinh tế, đâu có quan tâm đến phát triển đảng viên và tổ chứcĐảng. Lắm lúc tưởng bế tắc và bất lực. Kiên trì…thuyết phục…và ông Chiến đã thành công. Ông làm rõ lợi ích của doanh nghiệp khi có tổ chức Đảng. Nút thắt được tháo gỡ. Từ 1 chi bộ…3 đảng viên ban đầu, giờ đây tại các khu công nghiệp tỉnh đã thành lập được Đảng bộ với hơn 10 chi bộ và 200 đảng viên. Bắc Giang đã trở thành điển hình của cả nước trong công tác phát triển đảng viên, chi bộ đảng cơ sở tại các khu công nghiệp. Từ một đảng viên bị kỷ luật, khi được tổ chức tin tưởng, ông Nguyễn Minh Chiến đã vượt lên chính mình, thể hiện rõ ý chí của người cộng sản, khó khăn không lùi bước. Và ông Chiến đã được đảng viên tín nhiệm bầu làm Bí thư Chi bộ các doanh nghiệp khu công nghiệp, Phó Bí thư Đảng ủy các khu công nghiệp tỉnh. Nói về sự nỗ lực vươn lên của ông Chiến ông Nguyễn Xuân Vượng, Bí thư Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh nói.
Nghị quyết trung ương 4, khóa 12 như một luồng gió mới lan tỏa đến đảng viên và các tổ chức cơ sở Đảng. Chúng tôi được tham dựmột buổi sinh hoạt chi bộ định kỳ của Chi bộ Tổ dân phố số 6 phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang. Hôm nay, Chi bộ tiến hành kiểm điểm đối với đảng viên về cam kết không vi phạm 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nếu như trước đây, các đảng viên còn e dè, ngại phê bình, đóng góp ý kiến với các đảng viên thì nay đã khác… Ai có khuyết điểm tự nhận, và hứa sẽ tự sửa chữa…Không khí buổi họp diễn ra sôi nổi, thẳng thắn...
Chất lượng sinh hoạt được nâng lên, mỗi đảng viên nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tự soi mình để khắc phục, không vi phạm 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.. Không còn e dè, nể nang mà đảng viên tự nhìn nhận, tự soi và sửa, đó là chuyển biến lớn nhất theo như ông Hồ Sỹ Khương Bí thư chi bộ Tổ dân phố số 6 cho biết:
Bí thư Thành ủy Nguyễn Sĩ Nhận cho biết thêm ".Kể từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa 12, ở TP Bắc Giang, tại các buổi sinh hoạt chi bộ, đảng đều phải kiểm điểm, soi vào 27 biểu hiện suy thoái Rồi mỗi đảng viên có cam kết, xây dựng kế hoạch thực hiện rõ ràng, cụ thể. Căn cứ vào đó, Chi ủy, Chi bộ tiến hành kiểm điểm, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại đối với từng đảng viên để có kế hoạch khắc phục, sửa chữa. Không còn những buổi họp mang tình hình thức, nội dung chung chung, đến họp xong về, không tham gia ý kiến, Giờ đây, mỗi đảng viên đã nâng cao được nhận thức, trách nhiệm trong việc nhìn nhận những tồn tại, hạn chế của bản thân để sửa chữa, khắc phục..đã tạo sức lan tỏa mạnh mẽ. Từ đó ngăn chặn kịp thời những biểu hiện suy thoái...Sức mạnh của Đảng được tăng cường từ đảng viên biết soi, biết sửa”
Trước khi có Nghị quyết Trung ương 4 khóa 12, Đảng bộ xã Liên Chung huyện Tân Yên là đảng bộ không đạt trong sạch vững mạnh. Nhiều năm trước, do có sự bao che, dung túng, né tránh khuyết điểm để cán bộ, đảng viên vi phạm dể xảy ra khiếu kiện kéo dài, Ban chấp hành Đảng bộ đã tiến hành kiểm điểm vai trò, trách nhiệm của từng người. Ông Nguyễn Tiến Khương, Bí thư Đảng ủy Liên Chung cho rằng: "Nguyên nhân là do khuyết điểm chung của mỗi đảng viên cũng như trong Ban chấp hành Đảng bộ là còn nể nang, ngại va chạm và thiếu quyết liệt, mạnh mẽ trong phê bình, tự phê bình”
Hơn 2 năm qua, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bắc Giang đã chủ động tham mưu xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật Đảng trong toàn Đảng bộ gắn với triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII . Nội dung kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh sai phạm như ngân hàng, các cơ quan tư pháp, quản lý thị trường… Trong năm, toàn Đảng bộ tỉnh có 12 tổ chức đảng, 503 đảng viên bị xử lý kỷ luật, tăng 4 tổ chức đảng và 72 đảng viên…Hơn nữa, việc kiểm điểm thường xuyên theo quy định mỗi tháng 1 lần của Tỉnh ủy đã giúp cho chi ủy, chi bộ và mỗi đảng viên tự soi, tự sửa. Đề cậpvề nội dung này, đồng chí Lê Thị Thu Hồng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho biết:
Tư tưởng nhiệm kỳ hay không phải việc của mình thì không có trách nhiệm vốn tồn tại lâu nay tại nhiều Đảng bộ. Khi ban hành 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống như tấm gương để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi mình xem mình có dấu hiệu, biểu hiện đó hay không là vô cùng cần thiết. Hơn nữa, việc kiểm điểm thường xuyên theo quy định mỗi tháng 1 lần của Tỉnh ủy đã giúp cho chi ủy, chi bộ và mỗi đảng viên tự soi, tự sửa. Bí thưTỉnh ủy BùiVăn Hải khẳng định: " sức lan tỏa từ Nghị quyết Trung ương 4 với cách làm của Bắc Giang đã cho thấy chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm, vai trò nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Đặc biệt là tinh thần phê bình và tự phê bình, nhìn nhận những hạn chế, thiếu sót để khắc phục, sửa chữa”
Bế mạc hội nghị trung ương 6, khóa 12, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định vai trò quan trọng của mỗi đảng viên tự soi, tự sửa khuyết điểm liên quan đến niềm tin của nhân dân và sự tồn vong của Đảng
Vâng! Lời khẳng định của Tổng Bí thư là chân lý, có quan hệ biện chứng giữa đảng với dân. Cách đây 62 năm, Bác Hồ nhận lỗi trước Quốc hội (năm 1956) về những sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất đã nói: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” Và Bác Hồ đã từng nói "Mỗi đảng viên, mỗi người phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì Đảng sẽ không có bệnh, mà Đảng sẽ khỏe mạnh vô cùng”
Làm thì không tránh khỏi khuyết điểm…quan trọng là Sai thì Sửa…Được chứng kiến buổi Lễ kết nạp đảng viên mới ở tại Khu Công nghiệp Đình Trám, Trong không khí trang nghiêm, trong tiếng nhạc trầm hùng thiêng liêng, lời thề của những đảng viên vang vọng, ông Nguyễn Minh Chiến, Phó Bí thư Đảng ủy khối doanh nghiêp đã nói lên tiếng lòng của mình về niềm tin sắt son, giá trị con người trưởng thành từ thực tiễn. ( Trích ông Chiến)
Có thể nói, hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa 12 ở Bắc Giang đã tạo sức lan tỏa lớn lao, Đảng từng bước được chỉnh đốn, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức dần bị đẩy lùi. Tự soi và tự sửa, tất cả hành động vì nước, vì dân. Chắc chắn niềm tin vào Đảng mãi mãi trong lòng nhân dân.
DI CHÚC CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH SÁNG SOI ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI
Giải B, năm 2019
Nhóm tác giả: Thế Phương, Đức Bích
Thể loại: Phim tài liệu.
TẬP 1: SÂU LẮNG LỜI DẶN ĐẦU TIÊN
"T |
háp Mười đẹp nhất bông sen/Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Chủ tịch Hồ chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc ta, nhân dân ta. Người kết tinh những phẩm chất và giá trị tinh thần cao quý. Cuộc đời Người là tấm gương sáng ngời vì nước vì dân.
Bác Hồ sinh ra và lớn lên từ làng Sen, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An... Đất nước lúc đó chìm đắm trong đêm trường nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và bè lũ tay sai phong kiến... Chứng kiến cảnh đất nước lầm than, thôi thúc người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5/6/1911, từ bến cảng nhà Rồng... Sau bao năm bôn ba... Năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc lập bất hủ khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. (Trích Tuyên Ngôn độc lập).
79 mùa Xuân. Cả cuộc đời Người vì nước vì non. Chủ tịch Hồ Chí Minh được UNESCO vinh danh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về cõi vĩnh hằng 50 năm. 1/2 thế kỷ qua đi, những di sản quý báu của Người để lại cho chúng ta thật lớn lao. Trong đó, có Di chúc của Người được coi là Bộ sách Đại tổng kết thức tiễn, là Quốc Bảo- Pháp Bảo soi dọi con đường cách mạng cho chúng ta đi.
Bác bắt đầu viết Di chúc vào tháng 5-1965 dịp Người 75 tuổi. Từ đó đến năm 1969, trong khoảng 4 năm, Bác nhiều lần bổ sung, sửa chữa, có thể nói là rất công phu, thận trọng, nghiền ngẫm sâu sắc. Bác chọn thời điểm viết Di chúc từ 9 đến 10 giờ sáng của một vài ngày trong tháng sinh nhật. Có lẽ đây là một chi tiết khá thú vị, đặc biệt. Đây là khoảng thời gian minh mẫn, sáng suốt nhất trong ngày của con người. Chọn giờ đó để viết Di chúc, có lẽ, Bác muốn dồn tâm sức, trí tuệ vào những "điều mong muốn cuối cùng” cho dân, cho nước. Có thể coi đó là khoảng "giờ tâm linh” của Bác. Điều đó, thể hiện Người đã lấy sự sống vượt lên cái chết, cho ta thấy bản lĩnh văn hóa của Hồ Chí Minh.
PV: Ông Nguyễn Văn Công, Giám đốc Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh
PV: Giáo sư Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Mặc dù Bác chỉ khiêm tốn nói là "bức thư” và "mấy lời để lại”, nhưng đó thực sự là tác phẩm vô giá, thể hiện tư tưởng, đạo đức, phong cách của một con người vĩ đại-Hồ Chí Minh. Thời gian càng lùi xa thì càng tỏa sáng lấp lánh về tư tưởng, những quan điểm sâu sắc, gía trị vượt thời gian trong bản Di chúc chỉ vẻn vẹn nghìn từ của Bác.
50 năm trôi qua, trong Di chúc của Bác đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết trong Đảng. Nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Một trong những nội dung quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đầu tiên trong bản Di chúc là vấn đề xây dựng Đảng. Những vấn đề viết về xây dựng Đảng của Người trong Di chúc đã đạt đến tầm lý luận sâu sắc, thể hiện tầm trí tuệ, tầm nhìn lớn lao, mang tính thời đại sâu sắc.
PV: Giáo sư Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Lời Bác dặn trước lúc đi xa, nói về Đảng, trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác."
Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Bác hiểu rõ đoàn kết có sức mạnh to lớn như thế nào. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đoàn kết luôn là tư tưởng chiến lược cách mạng lâu dài nhất quán, có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Điều đó đã chứng minh trong lịch sử kể từ khi thành lập Đảng đến thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đến chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm Châu, chấn động địa cầu, rồi Đại thắng mùa Xuân 1975 đi vào lịch sử oai hùng của dân tộc. Đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là cơ sở của đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, là sức mạnh của Đảng và là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Do đó, trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết đã được Bác đặt lên hàng đầu.
PV: GSTS Hoàng Chí Bảo, Chuyên viên cao cấp, Nguyên Ủy viên Hội đồng LLTW
Di chúc phản ánh tâm hồn đạo đức cao đẹp vô cùng trong sáng và đẹp đẽ của một con người vĩ đại hết lòng phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Di chúc của Bác Hồ để lại tình thương bao la cho toàn Đảng, toàn dân với lời nhắn nhủ đầy xúc động triệu triệu con tim. Không những chỉ ra vai trò to lớn của sự đoàn kết, Bác còn chỉ ra cách thức, phương pháp để thực hiện đoàn kết nhất trí trong Đảng. Bác viết: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau."
PV: Giáo sư Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Trong nhiều lần về thăm Bắc Giang và các địa phương trong cả nước Bác luôn căn dặn về đoàn kết. Trong lời huấn thị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ nhất) ngày 17-10-1963, có đoạn: "Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công… Muốn thật sự đoàn kết thì phải có dân chủ thực sự trong Đảng. Phải thường xuyên nghiêm chỉnh phê bình và thật thà tự phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để cùng nhau tiến bộ. Làm cách mạng thí phải có đúng, có sai. Có sai thì chúng ta giúp nhau kiên quyết sửa chữa, và cùng nhau hăng hái tiến lên"... Bác đã nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, đoàn kết là sức mạnh, là mấu chốt của thành công. Theo Bác muốn đoàn kết phải thực sự dân chủ trong Đảng. Muốn dân chủ phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình nhằm giúp nhau cùng tiến bộ.
PV: GSTS Hoàng Chí Bảo, Chuyên viên cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng LLTW
Bác đã nhìn thấu những vấn đề sẽ xảy ra đối với Đảng, đó là những vấn đề mất dân chủ, vấn đề mất đoàn kết, là vấn đề của Đảng cầm quyền, là đạo đức cách mạng, vấn đề trong sạch của Đảng và trách nhiệm của mỗi Đảng viên. Những vấn đề này đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự.
PV: GSTS Hoàng Chí Bảo, Chuyên viên cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng LLTW
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Đặc biệt, trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI và XII, việc tự soi tự sửa mỗi cán bộ, đảng viên quan trọng hơn lúc nào hết, để từ đó lấy lại niềm tin trong nhân dân.
Trích phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Trong những năm gần đây, công cuộc phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm với chỉ đạo rất quyết liệt của Tổng Bí thư, xử lý nhiều đại án, nhiều cán bộ, kể cả cấp cao, cả đương chức, cả nghỉ hưu, với tinh thần "không có vùng cấm” để làm trong sạch Đảng, trong sạch đội ngũ, rất được lòng dân. Đó cũng chính là chúng ta đang làm theo lời căn dặn với 4 chữ "thật” trong xây dựng Đảng từ Di chúc của Người thày sáng lập Đảng ta.
Di chúc của Người là văn kiện lịch sử kết tinh trí tuệ, tâm hồn, tình cảm đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Toàn bộ nội dung Di chúc của Bác không chỉ là những lời căn dặn thiết tha mà ở đó đúc kết tư tưởng lớn, trái tim lớn của một con người vĩ đại toát lên tinh thần lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng và trù tính những công việc phải làm sau ngày thắng lợi, đối với Đảng, với Dân.
PV: Ông Trần Viết Hoàn, nguyên Giám đốc Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh
Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thật bình lặng. Vẫn vườn cây, ao cá. Những đồ vật ngày nào vấn còn đây thân thương và gần gũi biết nhường nào... Cũng một sự trùng hợp nữa khi nói về việc riêng ở cuối bản Di chúc trong lần soạn thảo đầu tiên, Bác chỉ viết có 79 chữ, trùng với 79 năm cuộc đời của Bác. Ngày Bác mất cũng trùng với Ngày Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Bác khai sinh, ngày 2-9 thật linh thiêng làm sao.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ vỏn vẹn nghìn từ nhưng Di chúc của Bác là một đại tổng kết về lý luận-thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhìn lại những chặng đường lịch sử từ khi có Đảng đến hiện tại và trù tính những công việc hệ trọng, rất cụ thể trong tương lai của đất nước, của sự nghiệp cách mạng. Di chúc của Bác thực sự là ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta cả trong hôm nay và mai sau.
Tập 2: CẢ MỘT ĐỜI VÌ NƯỚC, VÌ DÂN
...Lời bài hát cũng là tiếng lòng, là tình cảm thiêng liêng của triệu triệu con tim dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu. Người là hiện thân của khát vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc, hạnh phúc cho con người.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong Di chúc của Người luôn đau đáu niềm tin chiến thắng, mong mỏi đất nước được thống nhất Nam Bắc sum họp một nhà: "Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn".
Ông Nguyễn Đức Dự, Báo cáo viên Ban Tuyên Giáo Trung ương
Tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh đã thổi bùng lên tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong nhân dân Việt Nam lan tỏa và tạo thành sức mạnh đoàn kết.Và với Hồ Chí Minh - con người kết tinh những giá trị cao quý nhất của văn hóa của dân tộc, độc lập tự do chính là tư tưởng nổi bật và là "ham muốn tột bậc” của Người.
GS.TS Vũ Minh Giang, nguyên PGĐ Học viện Quốc gia Hà Nội
...Trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong trái tin luôn cháy bỏng niềm tin tưởng "độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào” và thống nhất đất nước nhất định sẽ thành công: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Niềm hạnh phúc vô bờ của Bác khi đọc được chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cũng là tìm ra con đường giải phóng dân tộc khỏi áp bức, nô lệ: Trong bài thơ Người đi tìm hình của nước của nhà thơ Chế Lan Viên: Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc/Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin/Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp/Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin/Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc/"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!...
Hiến trọn đời mình cho lý tưởng đó, độc lập tự do luôn là mục tiêu đấu tranh của Người ở từng chặng đường lịch sử. Sau 9 năm hoạt động tại châu Âu, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập Đảng Cộng sản Pháp.
Từ năm 1930, Người đã soạn thảo ra một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo mà tư tưởng cốt lõi là độc lập - tự do. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng - ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam. Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với cả thế giới khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ông Chu Đức Tính, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh
Năm 1946, trước âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc Việt Nam thể hiện thái độ chính trị dứt khoát và kiên định: "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”.Trước âm mưu cuồng bạo là "đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá” của đế quốc Mỹ, Ngày17 tháng 7 năm 1966 Hồ Chí Minh đã đúc kết lên lẽ sống của nhân dân Việt Nam và chân lý của thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Mùa Xuân Kỷ Dậu, năm 1969, Bác gửi lời thơ chúc Tết cuối cùng đến toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta (Trích).
Năm mươi năm qua lời kêu gọi của Người đã trở thành lời hịch lịch sử, chân lý lớn thời đại, bài học muôn đời của dân tộc ta. Trong thời đại của Người, khát vọng độc lập, tự do đã trở thành lý luận, mang tầm vóc của dân tộc và thời đại sâu sắc. Bác viết Di chúc trong lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt nhất nhưng trong Người tràn đầy niềm tin chiến thắng...
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc đối với thương binh, gia đình liệt sỹ. Tình thương bao la ấy của Người là bài vô cùng học quý giá, trường tồn với thời gian.Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng của Người, Bác Hồ của chúng ta đã căn dặn biết bao điều hệ trọng về công tác chăm sóc thương binh liệt sĩ:
GS.TS Hoàng Chí Bảo, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
50 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Tầm nhìn xa trông rộng của Hồ Chí Minh về xây dựng lớp lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng của nhân dân là hết sức trí tuệ. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Trong suốt cuộc đời cách mạng vẻ vang của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò, vị trí của thanh niên và đặc biệt quan tâm chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Trong Di chúc để lại, ngay sau phần nói về Đảng, Người căn dặn bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết.
GS.TS Hoàng Chí Bảo, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Ông Nguyễn Đức Dự, Báo cáo viên Ban Tuyên giáo Trung ương
Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại, tầm nhìn xa trông rộng của một bậc thiên tài cả đời Người vì nước, vì dân. Di chúc bất hủ của Người là chỉ dẫn, là lời dạy, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững. Ở đó, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng lớn và rất đặc sắc. CNXH của Hồ Chí Minh là một xã hội không ngừng vươn tới và đạt đến các giá trị chân – thiện – mỹ, đem đến cho con người một cuộc sống thực sự "Độc lập – tự do – hạnh phúc” như trong những dòng đầu tiên của Di chúc Người đã viết, mà vì nó, Người đã phấn đấu, dâng hiến trọn đời.
Ông Nguyễn Đức Dự, Báo cáo viên Ban Tuyên giáo Trung ương
GS.TS Hoàng Chí Bảo, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Trong Di chúc, tư tưởng về đổi mới và phát triển đất nước là một tư tưởng lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy lý luận khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang soi sáng cho con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
GS.TS Hoàng Chí Bảo, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Cuối bản Di chúc lịch sử Bác viết: "Về việc riêng: suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay, dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. ...”
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Đất nước ta đang đường đổi mới. Những thành quả kinh tế xã hội hôm nay, đời sống người dân ngày càng cải thiện, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên. Đó là chúng ta đang nỗ lực xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong ước của Người.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Di chúc là kết tinh tư tưởng, tinh hoa đạo đức, tâm hồn cao đẹp và phong cách của Người cả một đời vì nước vì dân. 50 năm, nửa thế kỷ trôi qua, Di chúc của Người vẫn là một văn kiện có giá trị lịch sử vô giá, là quốc bảo, là pháp bảo; trong đó, sự kết hợp chặt chẽ giữa tính khoa học và tính thực tiễn trên nền tảng chủ nghĩa nhân văn cao đẹp vô ngần đã làm nên giá trị chân chính và trường tồn của Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tập 3: BẮC GIANG THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA BÁC
...Bác Hồ về với "thế giới người hiền” khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt... Dù vậy, trong Di chúc, Người đã thể hiện niềm tin chiến thắng là điều chắc chắn... Thực hiện 5 lời thề với Bác, quân và dân ta biến đau thương thành hành động... Ở Bắc Giang, nhân dân đã đồng lòng cùng "Cả nước ra quân, toàn dân ra trận”, "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã cho trên 6.000 lần máy bay các loại, kể cả máy bay B52 và F111 đánh phá tỉnh Bắc Giang với hàng chục nghìn tấn bom đạn. Bom đạn giặc đã gây nhiều tội ác, song chúng cũng bị đánh trả và bị bắn hạ 161 máy bay, 92 tên giặc lái Mỹ bị bắt. Từ 1965 - 1975, thực hiện nghĩa vụ quân sự, tỉnh Bắc Giang đã đưa trên 70.000 người con thân yêu lên đường chiến đấu, góp phần hoàn thành ham muốn tột bậc của Bác là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do...
(Trích bài hát Những bông hoa trong vườn Bác...)
Nắng thu vàng trên Quảng trường Ba Đình làm gợi nhớ những sự kiện lịch sử tại chính nơi này... Ở nơi trái tim của cả nước, Bác đã yên nghỉ, nhưng đạo đức, tư tưởng của Người sống mãi với nong sông đất nước. Để hôm nay, những con cháu Người lại đến để báo công, để thấm nhuần thêm những tư tưởng mà nửa thế kỉ trước Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân...
Bản Di chúc thiêng liêng của Bác, sau nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại. Đã soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho cả mai sau.
PV: Thạc sĩ Nguyễn Đức Dự, Báo cáo viên Ban Tuyên giáo Trung ương
(Lịch sử cho thấy, cứ làm theo Bác dặn cái gì là thành công cái đó...)
Sinh thời, Bác dành tình cảm đặc biệt cho Bắc Giang. Đã 5 lần Bác về thăm Bắc Giang, lần nào Bác cũng căn dặn phải đoàn kết, phải chăm lo đời sống nhân dân. Đó cũng là những lời Bác dặn lại trong Di chúc trước lúc đi xa. Di huấn của Người như ngọn đuốc soi đường để tỉnh đi đúng hướng và vươn lên mạnh mẽ thực hiện nốt ham muốn tột bậc của Bác là làm cho đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
PV: Đồng chí Lê Thị Thu Hồng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Bắc Giang
(Những quyết tâm làm theo Di chúc của Bác và kết quả)
Kỷ niệm 50 năm thực hiện bản Di chúc là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức Đảng ôn lại lời căn dặn của Bác, tự soi rọi lại mình để bồi đắp thêm ý chí, quyết tâm và sức mạnh thực hiện các mục tiêu tối thượng vì Đảng, vì dân. Làm theo Di chúc, ở Bắc Giang được cụ thể hóa thành các phong trào thi đua. Biểu hiện rõ ràng nhất là học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác. 3 năm qua, Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị đã tạo động lực, sức lan tỏa mạnh mẽ để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa”, tạo nền tảng thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Qua 3 năm đã có trên 12.440 việc làm tốt của tập thể; gần 440.000 việc làm tốt của cá nhân được đăng ký thực hiện; có trên 630 vụ việc bức xúc nổi cộm ở cấp huyện và 5.500 vụ việc ở cơ sở được đăng ký giải quyết dứt điểm.
PV: Đồng chí Nguyễn Văn Liêm, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
...Trong Di chúc thiêng liêng, Người nhấn mạnh:" Đảng ta phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên, đào tạo họ trở thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên”. 50 năm đã qua, lời di huấn của Bác vẫn được lớp lớp thế hệ thanh niên tỉnh Bắc Giang tiếp nối, kế thừa, xây dựng hình ảnh thanh niên thời kỳ mới vừa hồng, vừa chuyên. Tỉnh Đoàn cụ thể hóa thành phong trào thi đua "Tuổi trẻ Bắc Giang nhớ lời Di chúc theo chân Bác”. Từ đó triển khai nhiều hoạt động ý nghĩa thu hút đông đảo đoànviên, thanh niên tham gia, tạo nên khí thế sôi nổi và đạt được nhiều kết quả tiêu biểu. Học và làm theo Di chúc, tuổi trẻ Bắc Giang hôm nay đang xây dựng một hình mẫu thời kỳ mới đủ đức, tài, trách nhiệm, sống có lý tưởng, hoài bão; cùng chung tay xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.
PV: Đồng chí Ngụy Văn Tuyên, Bí thư Tỉnh đoàn Bắc Giang
... Ngày 6/4/1961 là dấu ấn lịch sử không thể quên đối với mỗi người dân tỉnh Bắc Giang và thôn Long Trì, xã Tân An cũ của huyện Yên Dũng. Đó là ngày được đón Bác Hồ về thăm. Tại đây, Bác đã nói: "Cán bộ hợp tác xã phải dân chủ, công bằng, minh bạch, chí công vô tư. Xã viên phải đoàn kết với nhau như anh em một nhà; đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu trong lao động sản xuất và học tập. Đồng thời phải củng cố và phát triển chi bộ đảng thật tốt, thật mạnh”. Hơn nửa thế kỷ qua, lời dặn dò của Bác vẫn luôn là động lực, cổ vũ đảng viên và quần chúng xã Tân An cùng nhau vun đắp tinh thần đoàn kết, thống nhất, xây dựng đời sống mới...
PV: Ông Nguyễn Văn Hương, Bí thư Đảng ủy xã Tân An, Yên Dũng
... Thực hiện Di chúc của Bác, Đảng ta xác định nhân dân là mục tiêu, đối tượng, đồng thời là động lực quyết định của công cuộc đổi mới. Do vậy, mọi thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước đều vì hạnh phúc của nhân dân, vì mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Những lời căn dặn của Người từng bước được Bắc Giang thực hiện thông qua việc đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới. Sau 10 năm xây dựng Nông thôn mới đã làm thay đổi diện mạo nhiều vùng quê ở Bắc Giang... Huyện Lạng Giang, thành phố Bắc Giang và Việt Yên, 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, và Việt Yên trở thành nông thôn mới đầu tiên của tỉnh.
PV: Ông Nguyễn Đại Lượng, Phó Chủ tịch UBND huyện Việt Yên
50 năm, quãng thời gian đủ dài để khảo nghiệm bất kỳ chân lý nào. Ngay từ 50 năm trước, những vấn đề Bác nêu trong Di chúc đã thể hiện được sự đúng đắn, thể hiện được tầm nhìn của bậc vĩ nhân. Những vấn đề đó vượt thời gian, mang tầm thời đại và ngày càng được kiểm chứng. Làm theo Di chúc, đất nước ta dần đàng hoàng hơn, to đẹp hơn... Với Bắc Giang, 50 năm qua với bao thăng trầm của lịch sử tỉnh đều vượt qua nhờ nền tảng, động lực, nhờ ngọn đuốc soi đường của Bác. Giờ đây, Bắc Giang đã có nhiều đổi mới. Kinh tế liên tục tăng trưởng cao nhất kể từ khi tái lập tỉnh đến nay (đạt 15,78%, xếp thứ 4/63 tỉnh, thành cả nước). GRDP bình quân đầu người trên năm 2018 đạt 2.275 USD, đứng thứ 22/63 tỉnh, thành phố và ngày càng được rút ngắn khoảng cách so với bình quân cả nước. Kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó giao thông nông thôn được tập trung đẩy mạnh. Phong trào chung tay xây dựng Nông thôn mới diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở các địa phương. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ. Các chính sách an sinh xã hội được quan tâm, thực hiện tốt. Có thể nói, BG đã không phụ lòng mong mỏi của Bác.
PV Đồng chí Lê Thị Thu Hồng – phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Bắc Giang
.... Lịch sử luôn đòi hỏi những thành quả của cách mạng phải được tiếp tục phát huy, bồi đắp. Kỷ niệm 50 năm ngày Bác đi xa và cũng là nửa thế kỷ thực hiện Di chúc của Người, cán bộ, đảng viên và nhân dân BG tiếp tục thực hiện những sự chỉ dẫn quý báu trong bản Di chúc bất hủ để đưa tỉnh nhà cùng cả nước vững bước sánh vai với 5 châu. Mục tiêu đó chắc chắn sẽ đạt được bởi Đảng ta, dân ta được tư tưởng, đạo đức của Bác soi đường, và, bởi Người là niềm tin tất thắng...trích bài hát Người là niềm tin tất thắng.
PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG NÔNG THÔN – TỪ CHỦ TRƯƠNG ĐẾN THỰC HIỆN
Giải B, năm 2019
Nhóm tác giả: Thành Nam, Hải Minh
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: ĐƯỜNG LÀNG THAY ÁO MỚI
T |
háng 7/2017, HĐND tỉnh Bắc Giang ban hành Nghị quyết (NQ) số 07/2017/NQ-HĐND quy định chính sách hỗ trợ cứng hóa đường trục thôn, liên thôn và nội đồng gắn với giao thông liên thôn giai đoạn 2017-2021.
Sau gần một năm thực hiện, HĐND tỉnh tiếp tục ban hành NQ số 06/2018/NQ-HĐND sửa đổi, bổ sung một số nội dung của NQ số 07 và điều chỉnh thời gian thực hiện giai đoạn 2017-2019. NQ như luồng gió mới, khích lệ nhân dân khắp nơi góp công, góp sức, hiến đất cứng hóa đường làng ngõ xóm, tạo nên sức sống mới cho bức tranh thôn quê.
Đồng thuận cao
Trước đây, tỉnh đã có một số cơ chế, chính sách khuyến khích người dân cứng hóa đường giao thông nông thôn (GTNT). Thế nhưng, NQ lần này có mức hỗ trợ lớn, phạm vi áp dụng rộng, ví như những thôn, bản cứng hóa đường được hỗ trợ 100% xi măng. Riêng thôn, bản đặc biệt khó khăn (ĐBKK) và các thôn, bản thuộc xã ĐBKK, ngoài được hỗ trợ xi - măng như trên, mỗi km đường cứng hóa còn được tỉnh hỗ trợ thêm 100 triệu đồng.Các huyện chịu trách nhiệm tiếp nhận, vận chuyển xi măng từ đơn vị cung cấp đến công trình và cấp trực tiếp cho các thôn, bản. NQ cũng nêu rõ, tỉnh khuyến khích các huyện bố trí thêm kinh phí hỗ trợ cứng hóa đường GTNT.
Nhận thức rõ ý nghĩa từ NQ này, các cấp ủy đảng, chính quyền, ngành chức năng đã làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền về mục đích của việc cứng hóa và mở rộng đường GTNT. Qua đó, khơi dậy được sức dân, tạo sự lan tỏa cho phong trào ở khắp các làng quê trong tỉnh.Ông Hoàng Văn Thanh, Phó Giám đốc Sở Giao thông - Vận tải cho biết: "Khi mới triển khai NQ, người dân chưa mạnh dạn đăng ký thực hiện nên tiến độ cứng hóa đạt thấp. Sở nhiều lần làm việc và đề nghị các huyện, TP tập trung chỉ đạo, đa dạng cách thức tuyên truyền, vận động bà con góp tiền, hiến đất, ngày công; xem xét bố trí kinh phí hỗ trợ để tăng nguồn lực cho chương trình. Đồng thời, liên tục kiểm điểm, rút kinh nghiệm, tháo gỡ khó khăn đối với các huyện, TP về nhiệm vụ này”.
Yên Thế và Lục Ngạn là hai huyện miền núi với tổng chiều dài các tuyến đường GTNT cần cứng hóa lớn. Khi triển khai NQ của HĐND tỉnh, hai địa phương đã họp tất cả lãnh đạo các xã, thị trấn để phổ biến nội dung NQ. Huyện ủy, UBND huyện luôn quán triệt, chỉ đạo cấp ủy đảng, chính quyền các xã, thị trấn tập trung lãnh đạo thực hiện, gắn trách nhiệm người đứng đầu trong triển khai nhiệm vụ cứng hóa đường GTNT đã đăng ký. Ban Thường vụ Huyện ủy còn thành lập tổ công tác để giám sát, đôn đốc kết quả thực hiện của các đơn vị. Ông Thân Minh Sâm, Phó Chủ tịch UBND huyện Yên Thế cho rằng, để khuyến khích các thôn, bản, khu phố làm đường GTNT, ngoài hỗ trợ từ ngân sách tỉnh, huyện bố trí ngân sách hỗ trợ thêm 150 triệu đồng/km cho các thôn, bản ĐBKK. Mỗi tháng, huyện tổ chức giao ban trực tuyến với các xã, thị trấn để kiểm điểm kết quả thực hiện, kịp thời đưa ra giải pháp tháo gỡ khó khăn.Huyện giao Phòng Kinh tế và Hạ tầng xây dựng thiết kế mẫu điển hình để hướng dẫn các thôn áp dụng nhằm giảm chi phí đầu tư. Bằng cách làm trên, các xã trong huyện đã huy động được sức dân, tạo sự đồng thuận cao trong cách làm.Ông Nguyễn Văn Chi, Trưởng bản Hom, xã Tam Hiệp (Yên Thế) chia sẻ, sau khi tuyên truyền, vận động, hộ nào chưa thông, lãnh đạo bản cùng đại diện các tổ chức đoàn thể đến từng nhà vận động, thuyết phục. Gia đình cán bộ, đảng viên gương mẫu đi đầu trong việc góp tiền, hiến đất làm đường. Nhờ vậy, hai năm qua, bà con ở bản Hom đã góp hàng trăm triệu đồng và tháo dỡ nhiều công trình tường rào, hiến đất cứng hóa đường trong bản.
Tìm hiểu tại huyện Lục Ngạn, được biết, trước khi cứng hóa đường GTNT, các thôn đều thực hiện phương châm, người dân tự bàn bạc, tự thi công, giám sát và chịu trách nhiệm về chất lượng công trình. Huyện bố trí ngân sách hỗ trợ 100 triệu đồng/km đối với các tuyến đường thôn; riêng đối với đường thôn thuộc thôn, xã ĐBKK là 150 triệu đồng/km.Kết quả, từ năm 2017 đến nay, người dân Lục Ngạn đã đóng góp khoảng 300 tỷ đồng, hiến hơn 78 nghìn m2 đất, phá dỡ 460 m tường rào, tự nguyện chặt bỏ hàng nghìn cây ăn quả các loại để mở rộng, cứng hóa đường GTNT.
Cũng như ở huyện Lục Ngạn, Yên Thế, người dân ở các địa phương khác như Hiệp Hòa, Yên Dũng, Lục Nam… đã tích cực góp công, góp sức cứng hóa đường làng. Theo ông Nguyễn Văn Sỹ, Phó Chủ tịch UBND huyện Lạng Giang, ngoài vận động bà con góp tiền, các xã đều phát động phong trào hiến đất với phương châm đường mở đến đâu, hộ dân nhường đất vườn, đất thổ cư đến đó. Nhiều huyện đã ưu tiên kinh phí khuyến khích bà con mở rộng các tuyến đường. Huyện Lạng Giang hỗ trợ thêm 100 triệu đồng/km đối với những tuyến đường bề mặt rộng từ 3,5-4 m; 200 triệu đồng/km đối với tuyến đường bề mặt rộng từ 4,5 m trở lên. Huyện Yên Dũng hỗ trợ 20% giá trị công trình đối với các tuyến có nền đường đất nay cứng hóa mới; hỗ trợ 100% cát, đá đối với các công trình cải tạo, nâng cấp. Huyện Sơn Động hỗ trợ 200 triệu đồng/km đối với tất cả các loại đường…
Cứng hóa hàng nghìn km đường
Giờ đây, về các vùng nông thôn từ các huyện miền xuôi tới miền núi, nhiều tuyến đường làng, ngõ xóm nhỏ hẹp, trơn trượt, thậm chí là đường đất nhiều ổ voi, ổ gà ngày nào giờ được thay bằng đường bê tông phong quang, rộng rãi. Ông Nguyễn Thành Phần, Phó Chủ tịch UBND xã Tiến Dũng (Yên Dũng) cho biết, hiểu rõ ý nghĩa của việc cứng hóa đường giao thông không chỉ giúp người dân đi lại thuận lợi mà còn thúc đẩy KT-XH địa phương phát triển nên kể từ khi thực hiện NQ đến nay, toàn xã đã cứng hóa, mở rộng được 47 km đường trục thôn, nội đồng, trong đó, riêng năm nay cứng hóa hơn 30 km, vượt kế hoạch được giao. Phong trào cứng hóa đường GTNT ở các xã Đức Giang, Cảnh Thụy, Nham Sơn, Lãng Sơn… cũng lan tỏa mạnh mẽ. Ông Bùi Quang Huy, Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng cho biết, sau gần 3 năm thực hiện, toàn huyện cứng hóa gần 430 km đường GTNT, nâng tổng số km đường toàn huyện được cứng hóa lên hơn 820 km. Huyện phấn đấu hết năm nay, cứng hóa thêm 30 km đường GTNT.Mới đây, Yên Dũng là một trong 3 huyện trong toàn quốc được Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải tặng Bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2011-2020.
Không chỉ huyện miền xuôi, các huyện miền núi như Lục Ngạn, Yên Thế cũng tích cực cứng hóa đường làng. Trước đây, đường làng ở thôn Giành Cũ, xã Quý Sơn (Lục Ngạn) chủ yếu là đường đất nhỏ hẹp, đi lại khó khăn. Thế nhưng những ngày này về thôn Giành Cũ, nhiều tuyến đường được đổ bê tông kiên cố. Cùng chúng tôi đi trên tuyến đường vừa hoàn thành, ông Bằng Văn Năm, Trưởng thôn chia sẻ, trước đây nhiều tuyến đường trong thôn chỉ rộng hơn 2 m, trơn trượt, đi lại khó khăn. Mỗi khi vào mùa thu hoạch, người dân chuyên chở nông sản rất vất vả. Xác định việc làm đường trước tiên giúp lưu thông thuận lợi, đồng thời tiêu thụ hàng hóa dễ dàng nên hai năm qua bà con trong thôn đã góp hàng trăm triệu đồng và tháo dỡ nhiều công trình tường rào, hiến đất cứng hóa khoảng 4 km đường, chiều rộng mặt đường các tuyến đều rộng 3,5- 4 m.Theo Chủ tịch UBND xã Quý Sơn Lê Thành Đồng, sau gần 3 năm thực hiện NQ của HĐND tỉnh, đến nay toàn xã đã cứng hóa hơn 110 km đường trục thôn, ngõ xóm. Thời điểm này, các thôn đang tập trung cứng hóa 10 km đường còn lại theo kế hoạch, phấn đấu xong trong tháng 11 năm nay. Không chỉ xã Quý Sơn, tất cả các xã trong huyện đều đồng loạt cứng hóa, mở rộng đường trục thôn, liên thôn và ngõ xóm.
Theo báo cáo của Sở Giao thông - Vận tải, sau gần 3 năm thực hiện NQ số 07 và 06 của HĐND tỉnh, đến nay các địa phương trên địa bàn tỉnh đã cứng hóa hơn 4 nghìn km đường GTNT, trong đó chủ yếu là đường thôn xóm, nâng tỷ lệ cứng hóa loại đường này lên 78%, vượt khoảng 18% so với mục tiêu NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra đến năm 2020.Các tuyến đường đều đạt tiêu chuẩn mặt đường bê tông rộng từ 3,5 m trở lên. Số km còn lại đang được các địa phương dồn lực hoàn thành trong năm nay. Một số huyện có khối lượng thực hiện vượt hơn 100% kế hoạch ban đầu được giao như: Lục Ngạn, Lạng Giang, Yên Dũng, Yên Thế...
KỲ 2: HIỆU QUẢ HƠN CẢ MONG ĐỢI
Từ "cú hích” của tỉnh thông qua hỗ trợ toàn bộ xi - măng làm đường, gần 3 năm qua, hàng nghìn km đường giao thông nông thôn (GTNT) ở khắp các vùng quê trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã được đổ bê tông phẳng phiu. Qua đây tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội ở mỗi địa phương và là tiền đề quan trọng để nhân lên những phong trào khác.
Thúc đẩy sự phát triển
Khảo sát thực tế tại các xã: Tiến Dũng, Tư Mại và Đức Giang (Yên Dũng) được biết, kể từ khi đường trục thôn, nội đồng được cứng hóa, Hợp tác xã (HTX) Rau sạch Yên Dũng đầu tư hàng tỷ đồng mở rộng diện tích sản xuất các loại cây trồng theo công nghệ cao, quy mô 60 ha như: Dưa lưới, dưa chuột, rau cải, cà chua…Ông Trần Trọng Tùng, Giám đốc HTX cho biết: Sản phẩm rau của HTX chủ yếu xuất bán cho các siêu thị lớn tại Hà Nội. Trước đây, đường nhỏ hẹp, xuống cấp, mỗi khi thu hoạch hàng hóa, HTX phải vận chuyển bằng xe nhỏ nhiều đợt mới đưa được đến điểm tập kết, chi phí khá tốn kém. Hơn một năm nay, đường được cứng hóa, mở rộng, xe đông lạnh đến tận ruộng vận chuyển rau. Nhờ đó HTX giảm được hàng trăm triệu đồng chi phí công lao động, cước vận chuyển so với trước. Doanh thu của đơn vị hai năm trở lại đây đạt khá cao, từ 20-22 tỷ đồng/năm.
Tại huyện Tân Yên, các tuyến đường GTNT được mở rộng, cứng hóa cũng giúp nhiều doanh nghiệp thuận lợi trong việc liên kết sản xuất, thu mua nông sản cho người dân. Hiện trên địa bàn huyện đã hình thành gần 110 vùng sản xuất nông sản tập trung ở các xã: Ngọc Thiện, Lam Cốt, Phúc Sơn, Tân Trung, Quế Nham, Ngọc Châu, Quang Tiến và Liên Sơn với các mô hình trồng dưa chuột, bí ngô, rau ăn lá các loại…Điển hình là xã Tân Trung - địa phương có nhiều vùng sản xuất nông sản quy mô lớn của huyện. Ở hai cánh đồng liền kề là Cửa Đình và Dốc Kho thuộc thôn Đình Hả rộng chừng 8 ha, bà con sản xuất dưa chuột bao tử xuất khẩu, dưa chuột Nhật rồi đến ngô ngọt hoặc trồng ớt và rau ăn lá các loại.Theo ông Giáp Văn Bổng, thôn Đình Hả, do đường giao thông qua cánh đồng được đổ bê tông, việc vận chuyển phân bón, chăm sóc cây trồng thuận lợi hơn. Gia đình ông liên kết với doanh nghiệp trồng mỗi năm 2 vụ dưa, một vụ ngô ngọt trên diện tích gần 3 sào dưa bao tử, thu lãi khoảng 10 triệu đồng. Dưa chuột Nhật và ngô ngọt thu lãi từ 5-9 triệu đồng/sào/vụ”.
Về thôn Đồng Quýt, xã Tân Mộc (Lục Ngạn) vào thời điểm này, do đường trục thôn được mở rộng, cứng hóa nên vụ thu hoạch cam, bưởi năm nay ô tô cỡ lớn của thương nhân từ khắp các tỉnh, TP trong cả nước về tận vườn thu mua cho bà con, cao điểm có đến 3-4 container chở cam đi tiêu thụ. Việc tiêu thụ cam, bưởi thuận lợi đã giúp người dân tăng thu nhập. Theo lãnh đạo thôn Đồng Quýt, thôn có khoảng 250 hộ thì có tới 220 hộ có thu nhập 500 triệu đồng trở lên/năm từ trồng cam, bưởi.
Ông Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT thông tin: Hiện toàn tỉnh có hơn 160 cánh đồng mẫu sản xuất hàng hóa tập trung, chưa kể vùng cây ăn quả, thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc cứng hóa, mở rộng đường GTNT theo nghị quyết của HĐND tỉnh được triển khai đồng bộ ở các địa phương đã mang lại lợi ích kép cho người dân. "Ngoài giúp người dân đi lại dễ dàng, tại các vùng sản xuất, mỗi khi vào vụ thu hoạch, bà con được thương nhân về tận ruộng thu mua nông sản, giảm đáng kể công sức, thời gian và chi phí vận chuyển, tránh được tình trạng hàng hóa sản xuất ra không có người thu mua vì khâu vận chuyển gặp khó khăn”, ông Tùng nói.
Tiếp tục duy trì phong trào
Việc tổ chức cứng hóa đường GTNT theo nghị quyết của HĐND tỉnh đã góp phần giúp các xã từng bước hoàn thành tiêu chí giao thông trong xây dựng nông thôn mới. Được biết, đến nay toàn tỉnh có 102 xã được công nhận đạt chuẩn với 19/19 tiêu chí hoàn thành theo bộ tiêu chí quốc gia. Trong đó riêng chỉ tiêu cứng hóa đường trục thôn của các xã này đều đạt từ 70% trở lên. Đó là chưa kể trong tỉnh còn hàng chục xã khác tuy chưa về đích xây dựng nông thôn mới nhưng đều đã hoàn thành, thậm chí vượt chỉ tiêu này.
Theo đồng chí Lại Thanh Sơn, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, việc triển khai nghị quyết của HĐND tỉnh đã thu được kết quả rất cao, vượt gấp đôi so với kế hoạch ban đầu đề ra. Qua đây cho thấy, nghị quyết đã thực sự đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, đối với chương trình này, tỉnh sẽ kết thúc vào năm 2019. Bởi vì thời gian tới, tỉnh cũng cần dành nguồn lực lớn để đầu tư cho các nhiệm vụ quan trọng khác như xây dựng khu đô thị, khu cụm công nghiệp và các tuyến đường giao thông huyết mạch của tỉnh, huyện và nhiều hạng mục công trình khác… Tỉnh sẽ tiếp tục đầu tư lĩnh vực cứng hóa đường GTNT nhưng xem xét hỗ trợ ở giai đoạn sau, có thể là năm 2021-2025.
Kết quả cứng hóa đường GTNT sau gần 3 năm thực hiện nghị quyết của HĐNĐ tỉnh đã được khẳng định. Thế nhưng, theo Sở Giao thông- Vận tải, hiện nay trên địa bàn tỉnh vẫn còn hơn 1,5 nghìn km đường thôn xóm chưa được cứng hóa, mở rộng đạt tiêu chuẩn từ 3,5m trở lên. Hầu hết các tuyến đường chưa được cứng hóa đều nhỏ hẹp, xuống cấp, tập trung ở các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn. Trong khi đó nghị quyết của HĐND tỉnh về hỗ trợ xi- măng cho bà con cứng hóa đường chỉ thực hiện hết năm nay.
Thực tế, nhu cầu cứng hóa đường GTNT ở các địa phương vẫn còn cao, nhất là ở những huyện miền núi, vùng cao. Ông Nguyễn Quang Ngạn, Chủ tịch UBND huyện Sơn Động cho biết: "Là huyện vùng cao duy nhất của tỉnh, điều kiện kinh tế của hộ dân còn nhiều thiếu thốn, hơn nữa các hộ sinh sống phân tán, nhỏ lẻ. Nếu tiến hành cứng hóa đường GTNT thì tỷ lệ phải đóng góp kinh phí của người dân sẽ cao hơn nhiều so với những huyện khác trong tỉnh. Vì thế nếu không có hỗ trợ của Nhà nước thì địa phương gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp tục cứng hóa đường GTNT”.Cũng theo ông Ngạn, hiện toàn huyện vẫn còn khoảng 169 km đường trục thôn, liên thôn là đường đất đi lại rất khó khăn, chiếm 42% trong tổng số km đường thôn, trục thôn. Trước thực trạng trên, huyện mong muốn tới đây, tỉnh xem xét tiếp tục có cơ chế đặc thù hỗ trợ riêng cho các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn.
Để tiếp tục duy trì phong trào cứng hóa đường GTNT, thiết nghĩ, từ kinh nghiệm qua hơn 2 năm thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh, các địa phương cần tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân hiến đất, giải phóng mặt bằng, giảm chi phí đầu tư xây dựng. Đồng thời huy động sức dân bằng cách vận động các hộ góp tiền, ngày công để chung sức làm đường. Nhiều ý kiến cho rằng, muốn tăng nguồn lực đầu tư cứng hóa đường GTNT trong những năm tới, các huyện nên xem xét lồng ghép vốn của các chương trình mục tiêu, ưu tiên vốn xây dựng nông thôn mới để thực hiện tiêu chí giao thông. Mặt khác, từ cấp huyện đến xã cũng cần dành một phần ngân sách để hỗ trợ xi- măng, tạo "cú hích”, thúc đẩy người dân tích cực tham gia phong trào.Một vấn đề không kém phần quan trọng, sau khi các tuyến đường được đổ bê tông phẳng phiu, các địa phương, nhất là người dân tại mỗi thôn, xóm cần nâng cao ý thức chung tay bảo vệ; thường xuyên tổ chức duy tu, bảo dưỡng, nâng cao tuổi thọ công trình.
Có thể nói, thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh về hỗ trợ xi-măng cứng hóa đường GTNT đã đạt kết quả to lớn, hơn cả mong đợi. Đây cũng là bài học kinh nghiệm quý để các cấp ủy đảng, chính quyền trong việc đưa ra những chủ trương, chính sách hợp lòng dân, từ đó tạo ra nhiều phong trào khơi dậy sức dân cùng đồng thuận tự nguyện đóng góp tiền bạc, công sức xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
Giải B, năm 2019
Nhóm tác giả: Minh Ngọc, Công Doanh
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: KHÉO VẬN ĐỘNG, DỄ THÀNH CÔNG
C |
ông tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) có vai trò vô cùng quan trọng góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, quốc phòng; phát triển KT-XH ở miền núi, vùng cao. Xác định rõ tầm quan trọng đó, thời gian qua, nhiều địa phương của tỉnhBắc Giang đã có những mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả.
Miệng nói, tay làm, tai lắng nghe dân
"Không ai nghĩ rằng nhiều xã khó khăn, có đông đồng bào DTTS sinh sống như ở Yên Thế lại huy động được sức dân lớn để làm đường giao thông nông thôn (GTNT) nhanh, nhiều như thế. Nếu như dân vận không khéo, khó thành công”, đồng chí Nông Văn Tâm, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Yên Thế chia sẻ về công tác dân vận ở vùng đồng bào DTTS của huyện. Phong trào làm GTNT của huyện khởi nguồn từ Nghị quyết 07 (năm 2017) và Nghị quyết 06 (năm 2018) của HĐND tỉnh Bắc Giang quy định chính sách hỗ trợ cứng hóa đường trục thôn, liên thôn, nội đồng gắn với giao thông liên thôn trên địa bàn tỉnh.Theo đó, nhà nước hỗ trợ xi măng để cứng hóa đường; các địa phương vận động nhân dân tự giải phóng mặt bằng (GPMB), góp kinh phí, vật liệu, ngày công làm công trình. Khó khăn nhất là làm sao vận động bà con tự GPMB mà không có tiền hỗ trợ trong khi nhiều xã đồng bào DTTS chiếm 70 đến 80%.
Huyện ủy Yên Thế đã thành lập tổ dân vận do Trưởng Ban Dân vận làm tổ trưởng, thành viên là đại diện một số ban, ngành liên quan. Tổ phối hợp với cấp ủy, chính quyền các xã tuyên truyền, vận động nhân dân hiến đất, GPMB, giám sát tiến độ. Với phương châm "đi từng ngõ, gõ cửa từng nhà”, chi ủy, đảng viên các chi bộ đến từng hộ vận động hiến đất, giúp đỡ ngày công; gia đình có đảng viên gương mẫu để bà con làm theo.Hộ tích cực tham gia được biểu dương trên loa truyền thanh, gia đình còn lấn cấn được cán bộ đến tận nơi giải thích, vận động đã tạo sự đồng thuận cao. Xã Xuân Lương có 9/14 thôn ĐBKK, năm 2018, xã chỉ đăng ký thực hiện 10km nhưng nay đã làm 33km, hàng chục gia đình hiến hàng nghìn m2 đất ở, canh tác; tháo dỡ tường vành lao; tự chặt cây để làm đường.Đồng chí Nông Minh Hiên, Bí thư Chi bộ bản Tam Kha tích cực đi đầu phong trào, tình nguyện hiến gần 500 m2 làm đường, nhà văn hóa. "Đảng viên nêu gương làm trước, sau đó vận động người khác làm theo”, đồng chí Hiên chia sẻ. Cuối năm vừa qua, huyện Yên Thế đăng ký làm 167km thì nay hoàn thành gấp gần 3 lần, trở thành điểm sáng về phong trào cứng hóa GTNT của tỉnh.
Năm 2014, UBND tỉnh Bắc Giang quy hoạch xây dựng Khu Du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử, diện tích 14 ha tại xã Tuấn Mậu (Sơn Động). Dự án hoàn thành là điểm nhấn đặc biệt, tạo đòn bẩy phát triển KT-XH của tỉnh. Khâu khó nhất của dự án là GPMB, 70% bà con của xã là người DTTS, kiến thức về pháp luật còn hạn chế, nhiều hộ không chấp nhận bồi thường, không chịu di dời.Vì thế, Đảng ủy, UBND xã quán triệt tới đảng viên, người có uy tín, già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ tích cực tuyên truyền để tạo đồng thuận. Với phương châm "mưa dầm thấm lâu”, đảng viên, các già làng, trưởng bản thuyết phục gia đình, dòng họ, lắng nghe và kịp thời giải đáp những băn khoăn của người dân nên tạo sự thống nhất cao, GPMB khó lại trở thành "chuyện nhỏ”.Điển hình như dòng họ Triệu, đích thân Bí thư Đảng ủy xã Triệu Hữu Thắm "vào cuộc” giải quyết trên danh nghĩa người có uy tín trong dòng tộc. Bởi đất, giá trị tài sản đất lâm nghiệp của nhiều hộ từ vài trăm triệu đến tiền tỷ nên việc thuyết phục không đơn giản. Người uy tín của dòng họ này đến từng gia đình các chủ hộ như: Bà Triệu Thị Nguyên, ông Triệu Hữu Ngân... gặp gỡ các thành viên, phân tích, giảng giải cặn kẽ lợi ích to lớn của dự án, chính sách đền bù của Nhà nước.Nhờ đó, các gia đình trong họ Triệu sẵn sàng GPMB, tự nguyện tháo dỡ công trình nhường đất cho dự án. "Thấy hộ này, hộ kia đồng ý, hàng chục gia đình khác trong dòng họ Triệu cũng nghe theo”, Bí thư Đảng ủy xã Triệu Hữu Thắm phấn khởi cho biết.
Chuyện hiến đất cứng hóa GTNT ở huyện Yên Thế và GPMB ở Sơn Động là minh chứng rõ nét về dân vận khéo ở vùng DTTS của tỉnh. Quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, trọng tâm là Chỉ thị số 49 ngày 20-10-2015 của Ban Bí thư về "Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của đảng ở vùng đồng bào DTTS”; Nghị quyết số 110 ngày 11-7-2016 của Tỉnh ủy Bắc Giang về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay"..., cấp ủy các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bằng nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể.Đến nay, toàn tỉnh có gần 6.400 mô hình "Dân vận khéo” ở các lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó, các huyện có gần 2.500 mô hình, riêng vùng đồng bào DTTS hơn 550 mô hình.
Lan tỏa điển hình tiên tiến
"Dân vận khéo” ở vùng đồng bào DTTS thời gian qua đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Không chỉ tập trung giải quyết việc khó, việc mới nảy sinh từ cơ sở, các cấp ủy, chính quyền xuất phát từ lợi ích, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của bà con đã phát huy vai trò công tác dân vận từ cơ sở, nhân rộng những mô hình mới, điển hình tiên tiến.
Theo đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, những mô hình dân vận khéo có sức lan tỏa trong nhân dân, góp phần xoá bỏ các hủ tục, tạo thói quen tốt, nếp sống văn minh, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, cổ vũ nhân dân tham gia phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới (NTM).
Đơn cử ở thôn Ngọt, xã Hồng Giang (Lục Ngạn) - nơi có gần 100% đồng bào Sán Dìu sinh sống. Năm 2018, trước khi được huyện chọn xây dựng NTM kiểu mẫu, thôn nhiều đường đất, nhà văn hóa xuống cấp. 7 tiêu chí NTM kiểu mẫu yêu cầu cao, một số hạng mục kinh phí lớn."Tổ dân vận phân công từng thành viên phụ trách nhóm hộ, những hộ góp nhiều ngày công, tiền được biểu dương trên loa”, đồng chí Dương Văn Trình, Bí thư Chi bộ thôn nói. Tháng 8 vừa qua, thôn đã hoàn thành 7/7 tiêu chí, năm nay đón hàng chục đoàn khách đến tham quan, học hỏi kinh nghiệm xây dựng NTM kiểu mẫu. Được biết những năm qua, Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp tổ chức tuyên dương các điển hình dân vận khéo trong vùng DTTS để ngày càng lan tỏa, nhân rộng.
Đáng quan tâm là cấp ủy các cấp còn phát huy tốt vai trò người có uy tín trong cộng đồng, coi đây là chỗ dựa, cầu nối quan trọng của Đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị xã hội với người dân. Hiện nay, tỉnh có 535 người có uy tín trong vùng đồng bào DTTS, phần lớn đều tham gia các tổ chức đảng, đoàn thể ở cơ sở. Phát huy vai trò của mình trong công tác dân vận, họ đều là những điển hình tiêu biểu "Dân vận khéo”.Tiêu biểu như ông Mạc Văn Đậu, thôn Quán Cà, xã Biên Sơn (Lục Ngạn) tích cực tuyên truyền, vận động bà con giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Nùng. Ông đã phối hợp thành lập Câu lạc bộ (CLB) Dân ca dân tộc Nùng xã Biên Sơn, vận động 60 thành viên tham gia. Hiện nay ông phụ trách 11 CLB Dân ca dân tộc Nùng huyện Lục Ngạn.Ông Bàn Văn Cường, dân tộc Dao, thôn Thanh Chung, xã Tuấn Mậu (Sơn Động) gần 10 năm qua mở nhiều lớp truyền dạy chữ Dao cổ cho hàng trăm người trong vùng. Khi vai trò người uy tín được đề cao, đây sẽ là cầu nối, tấm gương sáng thường xuyên nắm tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của bà con, qua đó tuyên truyền, vận động và kịp thời đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương cách giải quyết những vấn đề của thực tiễn, góp phần giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân vùng DTTS.
KỲ II: BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN
Có thể thấy, công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) của tỉnh Bắc Giang rất đáng biểu dương, ghi nhận song vẫn còn đó những khó khăn, trăn trở. Làm thế nào để dân hiểu, dân đồng thuận và thêm tin tưởng làm theo nhiều hơn nữa là câu hỏi đặt ra với cấp ủy, chính quyền và người làm dân vận ở cơ sở.
Còn hạn chế, yếu kém
Quay trở lại huyện Yên Thế, dù sự việc xảy ra cách đây 3 năm song lãnh đạo xã Canh Nậu, Tam Tiến vẫn không quên những ngày "sóng gió” khi xây dựng đập Hồ Quỳnh. Con đập lớn ngăn lũ, dẫn nước tưới cho nhiều xã của huyện gồm: Tam Tiến, Canh Nậu, Đồng Tâm, Hồng Kỳ, Đồng Kỳ, Hồng Lạc.Theo đó, khi xây dựng đập, 70 ha đất canh tác của người dân và 7 hộ ở các xã Canh Nậu, Tam Tiến có thể bị ảnh hưởng khi GPMB. Do dân vận chưa tốt, bà con chưa rõ chính sách bồi thường cũng như lợi ích lớn khi đập xây xong nên hàng trăm người đồng loạt phản đối. Nhiều người dựng lều, bạt ngủ ở bờ sông Sỏi để ngăn cản thi công, thậm chí có cán bộ huyện khi đến làm việc bị phần tử quá khích chửi bới, hắt chất bẩn vào người.
Những lá đơn vượt cấp liên tiếp xuất hiện khiến nơi đây trở thành "điểm nóng” về an ninh trật tự (ANTT) của huyện. Trong bối cảnh đó, Huyện ủy Yên Thế chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể phối hợp với cấp ủy, chính quyền xã tập trung làm dịu tình hình."Có những hộ, chúng tôi đến nhà năm lần, bảy lượt giải thích, thậm chí thuyết phục ở hội trường thôn, xã không hiệu quả, lại thay đổi phương pháp như giao cho ban, ngành, đoàn thể hoặc đảng viên uy tín ở thôn gặp riêng trao đổi. Sau đó, vụ việc được giải quyết ổn thỏa, đây là bài học quý”, đồng chí Trần Thị Vượng, Trưởng Ban Dân vận - Chủ tịch Ủy ban MTTQ huyện chia sẻ.
Nhìn rộng toàn tỉnh có thể thấy, công tác dân vận ở vùng đồng bào DTTS vẫn còn hạn chế, yếu kém. Một số nơi, việc quán triệt, thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước chưa kịp thời. Đời sống đồng bào DTTS tại các xã vùng cao còn khó khăn, một bộ phận trình độ dân trí thấp. Không ít vụ việc chưa giải quyết thỏa đáng, thiếu kịp thời khiến bà con bức xúc. Cấp ủy, chính quyền một số nơi chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò công tác dân vận. Trình độ, năng lực cán bộ làm công tác này ở cơ sở hạn chế, có nơi không đáp ứng yêu cầu. Phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng, điều hành của chính quyền chậm đổi mới, có lúc chưa phù hợp với từng đối tượng, dân tộc, vùng, miền.
Nhiều chủ trương đúng nhưng do cấp ủy, chính quyền cơ sở không vào cuộc mạnh mẽ sẽ không tạo đồng thuận cao trong nhân dân. Câu chuyện xây dựng khu xử lý rác thải ở huyện Lục Ngạn là ví dụ. Năm 2016, UBND huyện quy hoạch xây dựng khu xử lý rác thải tập trung của huyện tại xã Biển Động, Tân Hoa, Thanh Hải và Phượng Sơn. Sau 3 năm, hiện chỉ có xã Thanh Hải xây được lò xử lý rác; ba xã còn lại không được bà con đồng tình. Nguyên nhân là do cán bộ, đảng viên ở đây chưa biết phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, vai trò công tác dân vận để vào cuộc. Cá biệt, có cán bộ, đảng viên còn xúi giục người dân thôn Vặt Phú (xã Tân Hoa) giữ xe của đoàn khảo sát xây dựng và xe chở rác của Công ty Môi trường đô thị huyện Lục Ngạn.
Hay như việc GPMB đường tỉnh 293 qua địa bàn các xã Lục Sơn, Bình Sơn, Trường Sơn, Vô Tranh (Lục Nam) liên quan đến gần 1 nghìn hộ dân. Nhiều gia đình không nhận tiền đền bù, đòi hỏi vượt quá quy định, có biểu hiện chống đối đến cùng.Đích thân Bí thư Huyện ủy Lục Nam Thân Văn Dàn phải đến tận nơi nắm tình hình, đưa ra quan điểm chỉ đạo; Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy và Chủ tịch Uỷ ban MTTQ huyện xuống từng hộ giải thích, vận động kết hợp sự vào cuộc của các đoàn thể chính trị - xã hội từ huyện đến cơ sở, các hộ đã chấp nhận phương án bồi thường, không phải cưỡng chế. Dù được giải quyết ổn thỏa song để xảy ra tình trạng trên là chuyện không vui.
Để thuận lòng dân
Có thể khẳng định, "dân vận khéo” giải quyết việc khó ở vùng đồng bào DTTS thời gian qua là bài học sâu sắc với mỗi cấp ủy, chính quyền. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy, chính quyền quan tâm sâu sát, biết phát huy vai trò công tác dân vận, phương pháp lãnh đạo linh hoạt, khoa học, ANTT nơi đó bảo đảm, KT-XH phát triển, niềm tin của bà con vào Đảng được nhân lên và ngược lại.
Theo đồng chí Nông Văn Tâm, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Yên Thế và đồng chí Hoàng Duy San, Trưởng Ban Dân vận - Chủ tịch Ủy ban MTTQ huyện Sơn Động, muốn đồng bào tin, nghe và làm theo, trước hết chủ trương, chính sách của địa phương phải trúng, hợp lòng dân, đúng pháp luật.Cán bộ, lãnh đạo hiểu phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt, bản sắc văn hóa… của mỗi dân tộc, vùng miền. Vì nếu không hiểu, không nắm chắc, dân vận sẽ khó thành công. Điều này lý giải không phải ngẫu nhiên hàng trăm hộ dân xã Bồng Am đã hiến hơn 30 nghìn m2 đất ở và canh tác trị giá gần 7 tỷ đồng để làm đường.
Nhiều hộ hiến 3-4 nghìn m2, bà con cam kết không sử dụng thuốc trừ cỏ canh tác rừng ở khu vực rừng đầu nguồn quy mô 2 nghìn ha, tránh ô nhiễm nguồn nước. Xã Chiên Sơn đã loại bỏ hủ tục, lãng phí tồn tại từ bao đời trong đám hiếu. Hay như người dân xã Tân Lập (Lục Ngạn) mạnh dạn chuyển đổi 2 nghìn ha bạch đàn giống cũ sang giống mới, hiệu quả cao gấp 4 lần so với trước...
Trước yêu cầu đổi mới và làm tốt hơn nữa công tác dân vận ở vùng DTTS, đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy cho biết, đơn vị sẽ tham mưu với Ban Thường vụ Tỉnh ủy một số giải pháp trọng tâm, trong đó tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 49 ngày 20-10-2015 của Ban Bí thư về "Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của đảng ở vùng đồng bào DTTS”; Nghị quyết số 110, ngày 11-7-2016 của Tỉnh ủy Bắc Giang về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay"...Cùng đó, đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng mô hình, điển hình "Dân vận khéo” trên các lĩnh vực của đời sống xã hội gắn với xây dựng NTM và các phong trào thi đua yêu nước. Phát huy vai trò nòng cốt của hệ thống dân vận trong tham mưu với cấp ủy tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng mô hình, điển hình. Chú trọng tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cơ sở kiến thức về công tác dân vận, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
Nhiều ý kiến cho rằng, ngoài vấn đề trên cần quan tâm đổi mới nội dung, phương thức công tác dân vận của Đảng, cụ thể là đổi mới cách tuyên truyền, vận động nhân dân; đổi mới về thể chế, phong cách thực hiện công vụ của cán bộ, đảng viên theo phương châm "gần dân, hiểu dân, lắng nghe dân nói”; thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát; cán bộ, đảng viên nêu gương làm tốt công tác dân vận."Muốn dân vận tốt ở vùng đồng bào DTTS phải chọn đúng người, lựa chọn cán bộ am hiểu về pháp luật, phong tục, tập quán, có uy tín. Mặt khác, cấp ủy, chính quyền nơi đó phải thực sự sát sao, mọi việc làm phải xuất phát vì lợi ích của đồng bào mới mang lại hiệu quả”, đồng chí Lê Xuân Thắng, Trưởng Ban Dân vận - Chủ tịch Ủy ban MTTQ huyện Lục Ngạn đề xuất.
PHÒNG, CHỐNG DỊCH TẢ LỢN CHÂU PHI
Giải B, năm 2019
Nhóm tác giả: Trịnh Lan, Thế Đại
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: LÚNG TÚNG, KHÔNG ĐÚNG QUY ĐỊNH
C |
hưa bao giờ dịch bệnh ở đàn lợn lại bùng phát mạnh và gây thiệt hại nặng như năm nay. Thế nhưng ở nhiều địa phương trong tỉnh Bắc Giang, công tác phòng, chống dịch bệnh còn bị động, lúng túng.
Nhà nào cũng có lợn chết
Mưa bay lất phất trong tiết trời se lạnh bất thường của tháng 5 khiến không khí ở thôn Lam Sơn, xã Đồng Phúc (Yên Dũng) thêm ảm đạm. Ở đây, nhà nào cũng có lợn chết do mắc dịch, nặng nhất là hộ chị Nguyễn Thị Phụ. Dáng người gầy yếu vì đang bị bệnh nặng nhưng chị Phụ vẫn cố đứng dậy với những bước đi tập tễnh để mời khách vào nhà. Qua câu chuyện, được biết, gia đình chị Phụ nuôi lợn từ nhiều năm nay song khoảng tháng 10-2018 mới bắt đầu vay mượn hơn 400 triệu đồng để làm chuồng trại, vào đàn quy mô lớn.
Hằng ngày, vợ chồng chị dành thời gian chăm sóc lợn với mong muốn có thêm khoản thu nhập để chữa bệnh, nuôi con. Ai dè, lợn mắc bệnh dịch tả lợn châu Phi (DTLCP), hơn 100 con nái và thương phẩm bị chết, hy vọng có cuộc sống khấm khá hơn của anh chị bị dập tắt, gánh thêm khoản nợ ngân hàng, người thân không biết đến bao giờ mới trả được. Chị Phụ bộc bạch: "Nhìn những con lợn nặng cả tạ bỏ ăn rồi lăn ra chết, vợ chồng tôi mất ăn, mất ngủ”.
Gia đình chị Phụ không phải hộ cá biệt. Bệnh DTLCP như một "cơn bão” càn quét, làm xơ xác nhiều làng quê. Không chỉ ở Lam Sơn, nhiều thôn ở các xã: Tân Lập (Lục Ngạn), Yên Lư (Yên Dũng), Hoàng Thanh, Xuân Cẩm (Hiệp Hòa), Nghĩa Trung (Việt Yên), Hương Lạc (Lạng Giang)… lợn cũng chết sạch. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và PTNT, đến ngày 12-5, toàn tỉnh có khoảng 70 nghìn con lợn bị chết do bệnh dịch.
Nhiều hệ lụy phát sinh
Dịch bệnh xảy ra đã phát sinh những hệ lụy. Trước tiên, người chăn nuôi bị thiệt hại. Không chỉ vậy, việc không xử lý tiêu hủy lợn đúng cách đã gây ô nhiễm môi trường không khí, nguồn nước.Gần chục ngày qua, xã Tân Liễu, thị trấn Neo (Yên Dũng) phải huy động lực lượng vớt xác lợn ở sông Thương để chôn hủy. Anh Vi Văn Ngọc, khu Đình, thị trấn An Châu (Sơn Động) cùng nhóm bạn tự nguyện vớt xác lợn trên sông, gom ở vệ đường khu vực đèo Chinh rồi chôn lấp. Dịch bệnh ở đàn lợn cũng tác động lớn đến thị trường thực phẩm. Một bộ phận người tiêu dùng quay lưng với thịt lợn khiến giá lợn hơi trong những ngày qua liên tiếp giảm mạnh, dao động từ 25- 32 nghìn đồng/kg.Cụ thể, tại huyện Yên Dũng, giá lợn hơi chỉ ở mức 25 nghìn đồng/kg, Lục Nam 28 nghìn đồng/kg; Tân Yên, Việt Yên, Hiệp Hòa 33 nghìn đồng/kg. Lợn nuôi ở các trang trại quy mô tập trung có giá cao hơn khu vực chăn nuôi nông hộ từ 3-4 nghìn đồng/kg.
Lợn ốm, chết xảy ra ở nhiều nơi nên trong thời điểm hiện nay nếu không kiểm soát tốt thì rất có thể người tiêu dùng sẽ ăn phải thịt lợn không bảo đảm chất lượng, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe. Thực tế, một số hộ chăn nuôi thẳng thắn chia sẻ, khi thấy lợn bỏ ăn, ốm đã bán chạy cho thương nhân với giá rất "bèo” để vớt vát lại đồng nào hay đồng ấy. Và những con lợn ốm này đều tiêu thụ trót lọt đến với người tiêu dùng mà chưa bị phát hiện, xử lý. Tuy nhiên, dù muốn hay không thì sử dụng thịt lợn trong bữa ăn hằng ngày vẫn là nhu cầu thiết yếu. Vì vậy, dịch bệnh ở lợn sẽ tác động mạnh đến những thực phẩm khác.Chưa kể các dịch vụ ăn uống, chế biến thức ăn sẵn, đồng thời tạo phản ứng dây chuyền tới thị trường thức ăn chăn nuôi. Hơn nữa, khi lợn bị bệnh DTLCP thì rất khó tái đàn, nguồn thực phẩm khan hiếm, tác động xấu đến đời sống người dân và phát triển KT-XH.
Tiêu hủy không đúng cách
Có thể thấy, số địa phương có bệnh DTLCP tăng lên nhanh chóng. Từ một xã ban đầu phát hiện ổ bệnh vào tháng 3, đến nay trên địa bàn tỉnh có hơn 200 xã, phường, thị trấn có lợn ốm, chết.Do lợn chết vào cùng một thời điểm với số lượng lớn, không ít chủ nuôi đã vứt xác lợn tràn lan ra môi trường. Dọc sông Thương, trên các tuyến kênh mương, vệ đường, bãi đất trống… đều có xác lợn đang trong quá trình phân hủy, ruồi nhặng bu kín, bốc mùi hôi thối. Ông Nguyễn Văn Thanh, người dân thôn Đại Thắng, xã Hoàng Lương (Hiệp Hòa) nói: "Gia đình tôi ở cạnh kênh tưới 1A nên nhiều ngày phải chịu mùi hôi hám do lợn chết vứt xuống lòng kênh. Có ngày, dòng kênh xuất hiện cả chục xác lợn, chúng tôi phải cùng nhau vớt lên chôn hủy”.
Thất vọng, thẫn thờ là tâm trạng của nhiều chủ nuôi khi có lợn chết, rất cần sự quan tâm, hỗ trợ của đoàn thể, chính quyền. Vậy mà trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận được nhiều phản ánh không hay về cách phòng, chống dịch ở địa phương. Người dân thôn Lại Tân, xã Tân Lập (Lục Ngạn) phản ánh, khi có lợn chết chờ mãi chẳng thấy cán bộ thú y và cơ quan chức năng đến lấy mẫu bệnh phẩm mang đi phân tích. Ông Phạm Đăng Thơ, thôn Lại Tân cho biết: "Chúng tôi rất hoang mang khi trong chuồng có gần 70 con lợn chết. Tôi mong cơ quan chức năng đến lấy mẫu xét nghiệm, kết luận chính xác về bệnh để có kế hoạch chăn nuôi song đến nay vẫn chưa có thông tin hồi đáp nào từ cơ quan chuyên môn”. Tương tự, ông Nguyễn Văn Sen, thôn Tân Sơn 2, xã Yên Lư (Yên Dũng) khi trao đổi với phóng viên cũng bày tỏ bức xúc. Nhà ông có hơn chục con lợn bị chết, trong đó có một lợn nái nặng gần 3,5 tạ và đàn lợn con. Gọi điện báo thôn, xã, cán bộ thú y, vậy mà mãi sau mới có người đến. "Nhà tôi chỉ có hai vợ chồng, không thể khiêng được con lợn nặng từng ấy. Tôi phải thuê một chiếc xe trong làng chở ra khu lò gạch cũ chôn”. Theo lời ông Sen, xe chở lợn đến nơi chôn hủy không được phun thuốc khử trùng, che bạt.
Ngoài ra, việc thực hiện chôn hủy lợn không đúng kỹ thuật cũng phổ biến, tập trung ở các xã: Xuân Cẩm (Hiệp Hòa), Hoàng Ninh (Việt Yên), Yên Lư (Yên Dũng)… Ngày 12-5, hố chôn lấp tại thôn Khả Lý Hạ, xã Quảng Minh (Việt Yên) có hàng trăm con lợn trương phình, bốc mùi hôi thối nhưng không được lấp kín. Hay như, đáng lý phải xác minh, thống kê lợn chết tại hộ mới đem đi chôn thì ở xã Nội Hoàng (Yên Dũng) lại yêu cầu người dân tự chở lợn ra địa điểm chôn mới làm việc này. Bởi thế, các hộ có lợn chết phải tự tìm cách chở ra nơi đào hố, dẫn đến việc chôn lấp bị chậm trễ, không bảo đảm vệ sinh. Rõ ràng, công tác phòng, chống DTLCP trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế, bất cập cần khẩn trương có giải pháp khắc phục, sớm ổn định tình hình chăn nuôi.
KỲ II: KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG "TRÊN NÓNG, DƯỚI LẠNH”
Chỉ từ một ổ bệnh ban đầu, bệnh dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã nhanh chóng lan ra toàn tỉnh Bắc Giang. Trước thực tế này, chính quyền các cấp, cơ quan liên quan, người chăn nuôi cần nhìn nhận thẳng thắn những hạn chế, bất cập để có biện pháp khắc phục, từ đó phòng, chống dịch bệnh hiệu quả hơn.
Nhiều hạn chế, khó khăn
Xác định bệnh DTLCP rất nguy hiểm và để lại hậu quả nặng nề nên tỉnh chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ các biện pháp theo phương châm huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc. Các đồng chí Thường vụ Tỉnh uỷ đã trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo phòng chống dịch tại cơ sở.Tuy vậy, việc thực hiện ở cấp huyện, xã lại chưa đúng với tinh thần chỉ đạo, có biểu hiện lơ là; chưa kịp thời trong xử lý tin báo lợn chết của người dân. Ở một số nơi, người dân thông báo, gọi điện nhiều lần song không có cán bộ thôn, xã đến lấy mẫu xét nghiệm, hướng dẫn tiêu hủy.Việc tiêu hủy chậm, không đúng quy trình khiến bệnh lây lan nhanh tại Hiệp Hòa, Yên Dũng, Lục Nam, Việt Yên… Từ cuối tháng 4 đến nay, bình quân toàn tỉnh có khoảng 5 nghìn con lợn chết/ngày.
Cùng đó, các chốt kiểm dịch hoạt động còn hình thức. Khảo sát vào chiều ngày 8-5, chốt kiểm dịch xã Yên Lư (Yên Dũng) không có người canh gác, phương tiện vô tư qua lại. Khâu kiểm soát không chặt chẽ dẫn đến hiện tượng bán chạy lợn bệnh.Ông Đoàn Văn Lũy, Cục trưởng Cục thú y vùng 2 (Bộ Nông nghiệp và PTNT) thông tin, trong tháng 4, ít nhất có 2 trường hợp vận chuyển lợn và sản phẩm từ lợn của tỉnh đi tiêu thụ tại Lạng Sơn và Thái Nguyên bị cơ quan chức năng phát hiện, lấy mẫu xét nghiệm đều dương tính với bệnh DTLCP. Về phía người dân, công tác phòng, chống dịch vẫn chưa vì lợi ích chung; vứt xác lợn tràn lan ra môi trường. Trong khi đó, hộ chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ lệ lớn.Ông Nguyễn Văn Táo, Trưởng thôn Tân Sơn 1, xã Yên Lư (Yên Dũng) thừa nhận, khi được tập huấn, tuyên truyền về bệnh DTLCP, người dân vẫn nghĩ bệnh ở tận đâu xa xôi lắm. Khi bệnh nhiễm vào đàn lợn tại địa bàn thì mới thấy mức độ lây lan rất nhanh.
Theo nguyên tắc phòng dịch thì người, khu vực chăn nuôi có lợn mắc dịch phải sát trùng trong vòng 7 ngày và không được ra bên ngoài. Thế nhưng các hộ này vẫn vô tư lưu thông bởi không có chế tài nào ngăn cản họ rời khỏi nơi cư trú. Cũng phải nhìn nhận, để DTLCP lan nhanh, rộng như hiện nay, ngoài yếu tố chủ quan như trên còn có nguyên nhân khách quan. Từ đầu tháng 4 trở lại đây, thời tiết bất thuận, trời nồm, thỉnh thoảng có đợt mưa.
Mặc dù các địa phương rắc vôi, phun hoá chất khử trùng với khối lượng lớn tại các cửa ngõ giao thông, lối dẫn vào các khu chăn nuôi tập trung... nhưng chỉ trong thời gian ngắn, hoá chất lại bị nước mưa rửa trôi, các giải pháp phòng, chống dịch chưa phát huy hiệu quả. Kinh phí dành cho công tác phòng, chống dịch hạn hẹp. Lực lượng thú y mỏng, không đáp ứng nhu cầu thực tế. Khi lợn mắc dịch chết xảy ra tại nhiều hộ cùng một lúc, chính quyền địa phương, thú y cơ sở không thể kiểm đếm, chôn hủy ngay được. Đặc biệt, DTLCP chưa có vắc-xin phòng chống, lây qua nhiều con đường, lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam nên việc ngăn chặn còn bị động, lúng túng.
Xây dựng phương án ổn định sản xuất
Kiểm tra tình hình thực tế, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Dương Văn Thái đã thẳng thắn phê bình các huyện: Hiệp Hòa, Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn đã để dịch bệnh bùng phát mạnh. Đồng thời yêu cầu các địa phương coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt; tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch; kịp thời biểu dương tập thể, cá nhân thực hiện tốt và phê bình, chấn chỉnh đối với nơi yếu kém. Đồng chí nhấn mạnh, Sở Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn các địa phương tiến hành thủ tục cần thiết để công bố dịch. Kiểm soát chặt chẽ, kiên quyết không để xảy ra tình trạng lợi dụng dịch bệnh, thu mua lợn chết về khai báo, nhận tiền hỗ trợ của Nhà nước.
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, trong tháng 5, toàn tỉnh triển khai tháng cao điểm phòng, chống bệnh DTLCP. Những tháng tới phải kiên trì phòng, chống dịch theo phương châm lấy cấp thôn làm trọng điểm, xác định người chăn nuôi giữ vai trò chủ thể, quyết định, quan trọng nhất vì họ trực tiếp thực hiện các biện pháp ngăn chặn dịch. Kinh nghiệm cho thấy, nơi nào chính quyền sát sao, người dân nâng cao ý thức thì lợn mắc bệnh ít. Ví như, mặc dù dịch bệnh đang bùng phát như hiện nay song nhiều trang trại chăn nuôi khép kín, an toàn dịch bệnh, lợn vẫn an toàn.Đơn cử, trang trại chăn nuôi lợn của Công ty TNHH Hải Thịnh Bắc Giang nằm ở thôn Đồng Tâm, xã Thường Thắng (Hiệp Hòa). Tuy ở giữa vùng DTLCP đang hoành hành nhưng đàn lợn nái hơn 300 con của doanh nghiệp (DN) luôn khỏe mạnh. Phó Giám đốc Công ty Lê Văn Hưng chia sẻ, để bảo vệ đàn lợn, DN thực hiện triệt để quy trình chăn nuôi an toàn sinh học.Trong trại có bác sĩ thú y và công nhân kỹ thuật quán xuyến. Lợn được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin: Dịch tả lợn, lở mồm long móng, tai xanh, đóng dấu; kiểm soát chặt chẽ các tác nhân lây bệnh từ bên ngoài, như: Người đi lại, vật nuôi khác, diệt chuột, ruồi, bọ… không cho vào khu chăn nuôi. Trại được xây tường rào kín, thường xuyên tiêu độc, khử trùng. Người lạ, công nhân ra, vào phải qua hệ thống sát trùng...
Từ thực tế trên cho thấy, để bảo vệ đàn vật nuôi của tỉnh, trước tiên chính quyền phải sát sao hơn nữa; người dân nâng cao ý thức, tự chịu trách nhiệm với đàn lợn của mình, không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Một điều đáng quan tâm hiện nay là lực lượng thú y mỏng, giải quyết không xuể khi lợn chết tăng nhanh nên không thể chỉ trông chờ vào lực lượng này trong phòng, chống dịch. Do vậy cần nhanh chóng trưng tập các lực lượng như: Thanh niên, cựu chiến binh, nông dân... tham gia chống dịch. Đội ngũ này phải được tập huấn ngay về kiến thức liên quan đến phòng, chống dịch. Xem xét khôi phục lại hệ thống thú y cơ sở như trước đây, để lực lượng này an tâm công tác. Song song với củng cố lực lượng, thiết nghĩ nên lập đường dây nóng để tiếp nhận thông tin, hướng dẫn xử lý phòng, chống dịch kịp thời; bổ sung cấp bách kinh phí trang bị vật tư, phương tiện như: Hóa chất, bạt che chắn… phục vụ tiêu hủy xác động vật đúng quy trình. Ở những nơi lợn bị bệnh DTLCP thì rất lâu sau mới có thể tái đàn. Vì thế, cùng với phòng, chống dịch bệnh, ngành nông nghiệp cần xây dựng phương án cụ thể về phát triển các dòng sản phẩm chăn nuôi khác như: Trâu, bò, gia cầm, cá… để sớm ổn định sản xuất, bảo đảm nguồn cung thực phẩm đến người tiêu dùng.
THÁO GỠ "RÀO CẢN” CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
Giải B, năm 2019
Nhóm tác giả: Thu Thủy, Quang Vĩnh
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
N |
ghị quyết 73 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành cách đây 3 năm đã khẳng định một quyết tâm chính trị của cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị trong việc tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho nhà đầu tư và doanh nghiệp. Nghị quyết được thực hiện đã khiến cho điểm số về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bắc Giang được nâng lên. Tuy nhiên, không ít khó khăn, trở ngại đặt ra trở thành "rào cản” "nút thắt” trong việc cải thiện môi trường đầu tư mà đòi hỏi tỉnh Bắc Giang đang phải quyết liệt tháo gỡ với một quyết tâm cao hơn.
"Nút thắt” làm giảm năng lực cạnh tranh
Sau 5 năm liên tục tăng điểm và tăng thứ hạng trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI , năm 2018 tỉnh Bắc Giang đã tiếp tục tăng thêm 0,81 điểm, đạt tổng số điểm 63,1 điểm và vươn lên từ nhóm trung bình sang nhóm khá. Điều này đã phần nào phản ánh nỗ lực của tỉnh trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Tuy nhiên, vị trí xếp hạng lại không được cải thiện mà ngược lại. Tỉnh Bắc Giang giảm tới 6 bậc trong bảng xếp hạng các địa phương, từ vị trí thứ 30 của năm 2017 đã giảm xuống vị trí 36 trong số 63 tỉnh thành trong cả nước. Tổng số điểm đạt được thấp hơn bình quân chung của cả nước.
PV: Ông Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang
Báo cáo đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh chỉ ra 4 nhóm chỉ số mà Bắc Giang giảm điểm trong năm vừa qua. Đó là: Chi phí gia nhập thị trường; Tính minh bạch; Tính năng động của chính quyền; thiết chế pháp lý… (Bắn chữ, dùng mũi tên thể hiện giảm điểm và giảm còn: Chi phí gia nhập thị trường giảm 0,48---7,34; Tính minh bạch: giảm 0,62---6,11; Tính năng động: giảm 0,5---5,55; Thiết chế pháp lý: giảm 0,2---5,9). Đây cũng là những chỉ số mà có số điểm bình quân thấp hơn của cả nước. Bên cạnh đó, chỉ số về tính cạnh tranh bình đẳng của tỉnh Bắc Giang mặc dù không giảm nhưng chậm được cải thiện qua từng năm và hiện đang thấp hơn so với bình quân chung cả nước và là chỉ số có số điểm thấp nhất của tỉnh Bắc Giang với 4,88 điểm. Tình trạng chậm cải thiện môi trường đầu tư liệu có phải ảnh hưởng của tình trạng "trên nóng dưới lạnh”.
PV: Ông Trương Viết Công, Chủ tịch HĐQT Cty cổ phần Khởi Phát
(Cần giảm nhiêu khê… Không vướng mắc bởi lãnh đạo tỉnh, huyện mà phần lớn do công chức thực thi nhiệm vụ…)
Hai năm gần đây, số lượng doanh nghiệp thành lập mới trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã tăng nhanh. Thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp đã được rút ngắn hơn so với quy định, trong đó số lượng đăng ký thành lập doanh nghiệp bằng phướng thức mới đã tăng lên nhiều. Ngay như trong nửa đầu năm nay, tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký thành lập qua mạng chiếm tới gần 60%. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn phải mất nhiều thời gian để vào hoạt động, gia nhập thị trường. Báo cáo PCI năm 2018 cũng chỉ ra con số: 27% doanh nghiệp phải chờ đợi hơn một tháng để hoàn thành tất cả thủ tục đi vào hoạt động; cán bộ ở bộ phận "một cửa am hiểu về chuyên môn” giảm từ 75% xuống còn 66%... Trong khi đó,nhiều doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các tài liệu của tỉnh, của địa phương về quy hoạch, pháp lý, ngân sách, ngay cả sau khi có đề nghị được cung cấp và thậm chí phải dùng đến "mối quan hệ” mới có được thông tin, tài liệu.
PV: Ông Mai Sơn, Chủ tịch UBND thành phố Bắc Giang
(Để khắc phục cần công khai quy hoạch… công nghệ thông tin)
Chính sách, quy định không thật sự minh bạch… Tồn tại nhiều chi phí không chính thức, sách nhiễu, gây khó khăn… Trên nóng dưới lạnh… Thực tế này đã phần nào minh chứng cho những trở ngại mà doanh nghiệp phải đối mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh… Thực tế cũng cho thấy, cải thiện môi trường đầu tư là một việc làm thường xuyên, liên tục và gần như không có điểm dừng. Tuy nhiên, nếu không có giải pháp để tháo gỡ những "nút thắt” rào cản, giải quyết tận gốc vấn đề về trách nhiệm của người thực thi công vụthì sẽ khó để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, khó để cải thiện môi trường đầu tư theo như kỳ vọng.
Tháo gỡ "nút thắt” cải thiện môi trường đầu tư
Bắc Giang đã theo đuổi mục tiêu nằm trong top 20 - 25 tỉnh thành đứng đầu cả nước về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh vào năm 2020. Đây là mục tiêu hết sức khó khăn nhưng là quyết tâm của cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Để tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, thời gian gần đây, tỉnh Bắc Giang đã liên tục tổ chức những hội nghị chuyên đề để đánh giá rõ hơn về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Trong đó, bàn luận, chỉ rõ những điểm còn tồn tại, những điểm có chỉ số thấp, phân tích nguyên nhân để từ đó có giải pháp khắc phục. UBND tỉnh Bắc Giang sẽ có riêng một Kế hoạch về nâng cao năng lực canh tranh và cải thiện môi trường đầu tư. Khi xây dựng Kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, tỉnh Bắc Giang sẽ xác định rõ nhiệm vụ, cụ thể của từng ngành, địa phương để trên cơ sở đó, từng đơn vị sẽ xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và có cam kết thực hiện. Việc tháo gỡ khó khăn, rào cản cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh sẽ gắn với trách nhiệm người đứng đầu, đội ngũ trực tiếp thực thi công vụ. Trong các nhiệm vụ, giải pháp phải tập trung, tỉnh Bắc Giang sẽ quyết liệt giải quyết các điểm nghẽn, rào cản.
PV: Ông Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang
(Sẽ xây dựng kế hoạch… giải quyết điểm nghẽn…)
Tại sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Giang, để cải thiện môi trường đầu tư, cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh đơn vị này sẽ phải nâng điểm số, nâng hạng của 33/128 chỉ số thành phần PCI. Ngoài kế hoạch chung của sở, từng đơn vị cũng đã xây dựng kế hoạch riêng để thực hiện, trong đó xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu và lấy làm cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành công việc.
PV: Ông Nguyễn Cường, Phó Giám đốc sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Giang
(Lấy kết quả PCI đánh giá người đứng đầu… Khi xây dựng Kế hoạch thay đổi tư duy,đề ra sáng kiến mới, cách làm mới).
Mô hình đăng ký kinh doanh thân thiện đang được sở Kế hoạch và Đầu tư triển khai thực hiện. Đây là một nét mới trong công tác cải cách hành chính của đơn vị này nhằm giảm thời gian, phiền hà cho doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh.Thực hiện mô hình, đơn vị này bố trí đội ngũ phù hợp, tăng cường thời gian kể cả làm thêm giờ để rút ngắn thời gian xử lý, giải quyết đối với các thủ tục hành chính liên quan. Bên cạnh đó, tăng cường phối hợp với các đơn vị liên quan, hỗ trợ tối đa các điều kiện để doanh nghiệp có thể vào hoạt động, gia nhập thị trường trong thời gian ngắn nhất. Điều này đã tạo được thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp.
PV: Ông Nguyễn Cường, Phó Giám đốc sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Giang
PV: Ông Nguyễn Hải Phong – Giám đốc Cty CP đầu tư phát triển y tế quốc tế
Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang mới đây đã thành lập Trung tâm tư vấn và hỗ trợ doanh nghiệp, dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong tháng 9 tới đây. Mô hình này được kỳ vọng sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận với nhiều thông tin của tỉnh, giảm phiền hà khi thực hiện các thủ tục hành chính và tăng cường hỗ trợ kiến thức liên quan đến quản trị doanh nghiệp.
PV: Ông Phùng Văn Minh, PCT Hiệp hội doanh nghiệp, Giám đốc Trung tâm tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp Bắc Giang
(Đặt vấn đề thành lập trung tâm… giải quyết điểm nghẽn…)
Tỉnh Bắc Giang luôn xác định, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường thu hút đầu tư, chủ động tháo gỡ khó khăn phát triển sản xuất… là một trong những nhiệm vụ giải pháp quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội hàng năm. Điều này hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển cũng như điều kiện thực tế hiện nay của địa phương. Trong năm nay, Bắc Giang đã thu hút được hơn 700 triệu USD vốn đăng ký đầu tư mới và tăng thêm, thường xuyên đứng trong top 10 địa phương đứng đầu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và có thể sẽ vượt mốc 1 tỷ USD trong năm nay. Nếu tỉnh Bắc Giang nâng cao năng lực canh tranh hơn nữa thì sẽ tạo thêm nhiều niềm tin cho nhà đầu tư, doanh nghiệp, tạo được sự lan tỏa và kết quả thu hút đầu tư sẽ còn cao hơn nữa.
BẮC GIANG BỨT PHÁ SAU 10 NĂM XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Giải B, năm 2019
Nhóm tác giả: Hồng Thơm, Anh Hoàng
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
V |
ới sự kiên trì, sáng tạo, sự quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, Chương trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng Nông thôn mới (NTM) trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Ngay khi bắt tay vào thực hiện chương trình, xuất phát điểm của các xã, số tiêu chí bình quân là 7,2 tiêu chí/xã. Tuy nhiên, sau 10 năm triển khai thực hiện, Chương trình NTM đã tạo sự bứt phá mạnh mẽ, đạt nhiều kết quả trên mọi phương diện.
Cụ thể đến hết tháng 8/2019, toàn tỉnh có 100/203 xã đạt chuẩn NTM, chiếm 49,3%, tăng 32,6% so với năm 2015, cao hơn bình quân khu vực miền núi phía Bắc 22,85%, cao hơn mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII từ 9,3%-14,3% vượt 9,9 % mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ giao trước 02 năm. Đặc biệt, có 03 đơn vị (Việt Yên, TP Bắc Giang, Lạng Giang đã có 100% số xã đạt chuẩn). Bắc Giang trở thành tỉnh đứng tốp đầu khu vực miền núi phía Bắc.
Có được kết quả trên là do tỉnh Bắc Giang đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phát huy sự sáng tạo của các cấp ủy, chính quyền các cấp trong quá trình thực hiện và đặc biệt là đã khơi dậy sự đoàn kết toàn dân trong việc chung sức đồng lòng đóng góp kinh phí để thực hiện chương trình.
SỰ VÀO CUỘC CỦA CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo chương trình MTQG xây dựng NTM, dự kiến hết năm 2019, toàn tỉnh có 114/203 xã đạt chuẩn, chiếm 56,6%. Bình quân tiêu chí toàn tỉnh đạt 15,5 tiêu chí xã, tăng 8,3 tiêu chí/xã so với năm 2010.
Để có được thành quả này, 10 năm qua, tổng nguồn vốn tỉnh Bắc Giang huy động thực hiện Chương trình khoảng 11.389 tỷ đồng. Không chỉ có vậy, ngay khi bắt tay vào triển khai thực hiện Bắc Giang đã nhận thức được tầm quan trọng của Chương trình MTQG xây dựng NTM đối với khu vực nông thôn. Vì vậy nên Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về NTM thể hiện sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền đối với khu vực nông thôn, nông nghiệp và nông dân, UBND tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết và kế hoạch 5 năm, hàng năm thực hiện Chương trình, phát động phong trào "Bắc Giang chung sức xây dựng NTM”; các huyện, thành phố đã cụ thể hóa bằng Nghị quyết, văn bản chỉ đạo, tổ chức quán triệt đến toàn thể cán bộ, đảng viên, tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân.
Đặc biệt, do xác định đây là một Chương trình mới, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm nên bước sang giai đoạn 2016-2020, quan điểm chỉ đạo từ tỉnh đến cơ sở đã thay đổi mạnh mẽ, theo hướng chú trọng nâng cao chất lượng của Chương trình, trước đây chủ yếu tập trung đầu tư vào xây dựng các công trình lớn của xã, thì trong giai đoạn này đã chuyển sang chỉ đạo thực hiện các nội dung trọng tâm, tác động trực tiếp đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân và nâng cao chất lượng Chương trình như: làm đường giao thông nông thôn nâng cao chất lượng tiêu chí giao thông; phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao; thực hiện thôn nông thôn mới kiểu mẫu, xã nông thôn mới nâng cao tại các xã đã đạt chuẩn; mô hình tuyến đường hoa, cây xanh tạo cảnh quan xanh - sạch - đẹp; thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm... Do đó nhiều nơi đã có tư duy, cách làm mới, huy động nguồn lực lớn, góp phần đưa chương trình đạt kết quả cao.
PV: Ông: Dương Văn Thái, Phó chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang
SÁNG TẠO TRONG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
Một trong những cách làm sáng tạo phải kế đến là việc lấy thôn là địa bàn trọng tâm đồng thời huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị của huyện Hiệp Hòa. Ở đây từ thôn đến xã trong huyện Hiệp Hòa đã thực hiện tập tốt quy chế tập trung dân chủ, lấy người dân là chủ thể trong xây dựng NTM, từ đó huy động sự vào cuộc của người dân trong việc hiến đất làm đường, đóng góp ngày công, tiền của để xây dựng các hạng mục công trình. Do đó không chỉ tạo sự chuyển biến lớn về cơ sở hạ tầng và đời sống của người dân nông thôn mà còn tạo cho người dân tin tưởng vào chủ trương lớn của tỉnh.
PV: Ông Ngô Khắc Long, Thôn Bắc, Xã Bắc Lý, huyện Hiệp Hòa
Không chỉ có cách làm sáng tạo từ cơ sở mà trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, tỉnh Bắc Giang còn ban hành nhiều cơ chế chính sách phù hợp với nguyện vọng của người dân. Điển hình nhất là chủ trương hỗ trợ xi măng để làm đường giao thông nông thôn của tỉnh đã tạo sức lan tỏa lớn, hình thành phong trào trong việc huy động sự đóng góp tiền của, công sức của người dân trong làm đường. Cụ thể, tính riêng ngân sách tỉnh từ năm 2017 người dân đã đóng góp trên 1.000 tỷ đồng làm trên 4.000 km đường giao thông nông thôn, qua đó góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng NTM cũng như đi vào chiều sâu, bền vững.
PV: Ông Dương Văn Phong, trưởng thôn Tuấn Thịnh, xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang
PV: Ông Lê Anh Huy, Chủ tịch UBND xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang
Đáng mừng là chủ trương hỗ trợ xi măng làm đường giao thông của tỉnh cũng phát huy mạnh mẽ ngay cả đối với những xã có xuất phát điểm thấp, điều kiện kinh tế khó khăn thuộc tốp triển khai ở giai đoạn cuối so với các xã trong huyện như xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang.
Xã Xuân Hương nằm ven đê sông Thương nên việc phân bố dân cư không đồng đều, đường giao cũng không thuận lợi. Đây là thách thức lớn đối với xã. Tuy nhiên nhờ có chủ trương hợp lòng dân, đồng thời chính quyền địa đã phát huy tốt sức bật từ lòng dân trong việc huy động mọi nguồn lực, nên làm đường đã trở thành phong trào sôi nổi, rộng khắp tại xã, góp phần giúp Xuân Hương về đích NTM theo đúng kế hoạch đã đề ra.
PV: Ông Trần Văn Khoản, thôn Gai, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang
PV: Ông Nghiêm Phú Sơn, Chủ tịch UBND xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang
Cùng với việc ban hành các cơ chế chính sách phù hợp thì việc tập trung gỡ khó đối với các tiêu chí khó thực hiện như: cơ sở vật chất văn hóa, môi trường, thu nhập, trường học... cũng luôn được các địa phương quan tâm triển khai.
Năm 2019, huyện Lục Nam phấn đấu đưa thêm 4 xã về đích NTM. Mặc dù số xã về đích giai đoạn 2 gặp nhiều khó khăn, song do có sự chủ động triển khai phát huy tinh thần làm chủ của người dân, đồng thời chính quyền các cấp từ huyện đến xã, thôn đã bám sát cơ sở, tập trung tháo gỡ khó khăn, nên cơ bản đã hoàn thành mục tiêu chương trình.
PV: Ông Đặng Văn Nhàn, Chủ tịch UBND huyện Lục Nam
Bên cạnh việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn thì một tiêu chí quan trọng và là mục tiêu cốt lõi luôn được các địa phương coi trọng đó chính là tập trung phát triển sản xuất để nâng cao đời sống nhân dân vùng nông thôn. Các địa phương đã tập trung cao cho công tác dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn trồng lúa và rau màu và xây dựng mô hình nhà màng ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất để tạo chuỗi giá trị và nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo thu nhập ổn định cho người dân vùng nông thôn. Nhờ vậy đã góp phần nâng cao giá trị thu nhập trên cùng đơn vị diện tích đất canh tác đạt 103,5 triệu đồng/ha, tăng 56,5 triệu đồng so với năm 2010; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn có sự chuyển biến rõ nét, đến nay đạt khoảng 38 triệu đồng/người/năm (tăng gấp 3 lần so với năm 2010 và gấp 1,7 lần so với năm 2015); tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2016-2020 giảm từ 11,72% năm 2016 xuống 7,29% năm 2018, bình quân mỗi năm giảm 2%, riêng các xã đặc biệt khó khăn giảm khoảng 4%. Kết quả này càng tiếp thêm động lực cho các địa phương tiếp tục tập trung nâng cao chất lượng chương trình.
PV: Ông Ngô Tiến Dũng, Chủ tịch UBND huyện Hiệp Hòa
PV: Ông Nguyễn Văn Bộ, Phó chủ tịch UBND xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng
Kinh tế phát triển tạo cơ sở để các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế đạt kết quả cao. Tỷ lệ hộ gia đình văn hóa đạt 88,3%, tỷ lệ làng bản, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 76,5%, có 84 xã đạt xã văn hóa nông thôn mới, đạt 41,2%... Toàn tỉnh đã có 100% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 10/10 huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; 100% số xã và các huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2; Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 85%. Chất lượng khám, chữa bệnh tiếp tục được nâng lên, cơ sở y tế được quan tâm, từng bước hiện đại hóa trang thiết bị. Ðến nay tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 97,2% (tăng 5,2% so năm 2017).
TIẾP TỤC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH
Một chuyển biến rõ nét nhất mà ai cũng nhận thấy ở huyện NTM Việt Yên, đó là ngay sau khi về đích huyện đã tập trung đầu tư nguồn lực để nâng cao chất lượng các tiêu chí. Trong đó, tiêu chí phát triển sản xuất nâng cao thu nhập người dân nông thôn đã được huyện đẩy mạnh, với mục tiêu không chỉ sản xuất ứng dụng công nghệ cao mà còn gắn với công nghệ số hóa để nâng cao hiệu suất lao động, giảm lao động thủ công, hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn.
PV: Ông Nguyễn Đại Lượng, Phó Chủ tịch UBND huyện Việt Yên
Hòa cùng phong trào sôi nổi chung sức xây dựng NTM của các địa phương vùng đồng bằng, các huyện miền núi trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng đã vào cuộc tích cực và tập trung đẩy mạnh thực hiện chương trình.
Yên Thế là huyện miền núi, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên khi bắt đầu triển khai chương trình, xuất phát điểm của huyện rất thấp, bình quân tiêu chí toàn huyện đạt 5,6 tiêu chí, nhưng do có cách làm phù hợp, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đồng thời phát huy nội lực của người dân nên đến nay toàn huyện đã có 7 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đáng quan tâm là số tiêu chí bình quân đạt 13,6 tiêu chí, tăng 8 tiêu chí. Từ một huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, 24% năm 2010, giảm xuống còn hơn 10% năm 2018, đời sống người dân huyện miền núi ngày một nâng lên, hạ tầng nông thôn chuyển biến rõ nét.
PV: Ông Nguyễn Văn Đông, Trưởng phòng NN & PTNT huyện Yên Thế
Với sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị cùng những cách làm sáng tạo trong triển khai đồng bộ các giải pháp, nhất là việc huy động sự vào cuộc tích cực của người dân, phát huy vai trò chủ thể của người dân trong thực hiện chương trình nên những kết quả mà tỉnh Bắc Giang đạt được đã đóng góp không nhỏ vào thành tựu chung của cả nước, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc được Trung ương ghi nhận và đánh giá cao.
PV: Ông Nguyễn Xuân Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ NN & PTNT
Mặc dù đã đạt được kết quả nổi bật, cơ sở hạ tầng và đời sống người dân vùng nông thôn đã có đổi thay rõ nét, song không dừng lại ở đây mà tỉnh Bắc Giang luôn xác định xây dựng nông thôn mới là quá trình lâu dài, xuyên suốt, có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc. Vì vậy nên thời gian tới tỉnh Bắc Giang sẽ tiếp tục quan tâm triển khai nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng chương trình, trong đó thực hiện tốt chủ trương thôn NTM kiểu mẫu, xã NTM nâng cao, chương trình mỗi xã một sản phẩm.... để hướng tới mục tiêu cốt lõi là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân sinh sống ở địa bàn nông thôn.
PV: Ông Dương Văn Thái, Phó chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang
Với những giải pháp cụ thể, tỉnh Bắc Giang tiếp tục củng cố, tập hợp sức mạnh đại đoàn kết cùng chung tay thực hiện hiệu quả hơn nữa Chương trình MTQG xây dựng NTM, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ đề ra và góp phần đưa kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng phát triển.
Cảm nhận lớn nhất lúc này khi về thăm những vùng nông thôn của tỉnh Bắc Giang đó chính là đổi thay về kinh tế, hạ tầng xã hội, cảnh quan môi trường sáng – xanh – sạch đẹp, an ninh trật tự được đảm bảo, các giá trị truyền thống được giữ vững và đặc biệt là ý thức trách nhiệm của người dân với cộng đồng được nâng cao, nhân dân đồng thuận, đoàn kết và hài lòng.
NỖ LỰC GIẢM NGHÈO
Giải B, năm 2019
Tác giả: Lê Hồng Nhung
Thể loại: Phóng sự thu thanh
T |
hưa quý vị !Trong thành tựu chung của đất nước về công tác giàm nghèo có sự đóng góp không nhỏ từ tỉnh Băc Giang. Với cách làm sáng tạo và sâu sát, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững của tỉnh đã đạt nhiều kết quả tích cực. Trong đó đáng chú ý nhất là sự nỗ lực vươn lên của người nghèo cộng sự tận tâm của cấp ủy chính quyền các cấp. Nhờ vậy hàng trăm nghìn hộ nghèo đã vươn lên thoát nghèo có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Mời quý vị cùng nghe loạt bài " Nỗ lực giảm nghèo " của phóng viên Hồng Nhung.
Phần1:NHẬN THỨC NÂNG CAO ĐỂ THOÁT NGHÈO BỀN VỮNG.
Thưa quý vị thính giả! Nếu như trước đây nhiều hộ nông dân muốn được bình xét là hộ nghèo để trông chờ, ỷ lại vào chính sách ưu đãi, hỗ trợ từ Nhà nước, thì nay nhận thức của họ đã thay đổi, họ nỗ lực vươn lên, không muốn nhận hộ nghèo. Câu chuyện được ghi nhận ở huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang – một trong 62 huyện nghèo nhất cả nước. Mời quý vị và các bạn cùng nghe.
Đến thăm gia đình ông Lý Văn Tám, người dân tộc Dao ở thôn Đồng Sim, xã Tuấn Đạo huyện Sơn Động vào một ngày nắng gắt. Căn nhà mái ngói khang trang, tường chưa sơn màu, gạch lát đá hoa khiến cho người bước vào như tan đi cảm giác mệt mỏi. Nhìn ngôi nhà sạch đẹp hôm nay, mọi người không thể hình dung được gia đình ông đã từng rất chật vật khi ở căn nhà đất lụp xụp trước đây. Đông con, công ăn việc làm không ổn định khiến ông Tám bao năm quanh quẩn với cái khó, cái nghèo. Được hỗ trợ từ chương trình giảm nghèo, cả nhà cùng nhau chắt chiu từng đồng vốn chính sách để học nghề và đầu tư trồng rừng, làm nông nghiệp. Đổi lại đến nay 5 người con của ông đều tìm được việc làm ổn định ở các khu công nghiệp, 1 người là lao động có thời hạn tại Malaixia. Ông Tám tình nguyện viết đơn xin ra khỏi danh sách hộ nghèo. Ông nói.
Băng. Tôi bảo tôi không lấy hộ nghèo nữa đâu.Tôi suy nghĩ là bây giờ tôi phải cố gắng làm cho gia đình đàng hoàng chứ để mãi nghèo xã hội nhìn vào nó không hay. Con cái tôi thoát ly gần hết rồi, tôi cố gắng không ở trong danh sách hộ nghèo nữa, nghèo mãi thấy xấu hổ lắm.
Tài sản ở nhà của ông bà Tám hiện có 2 hecta rừng 5 năm tuổi, 7 sào ruộng dư thóc lúa sau mỗi vụ mùa, và chục đàn ong mật.
Băng trao đổi với ông Tám.
PV: Nuôi ong có khó không bác?
Ông Tám: không khó đâu.
PV : Làm thế nào để năng suất mật được cao ạ?
Ông Tám: Mùa hoa thì mới nhiều mật, không có hoa thì phải cho nó ăn.
PV : Mỗi lần quay được khoảng bao nhiêu lít mật hả bác?
Ông Tám: Khoảng 40 lít.
PV: Giá bán có cao không bác?
Ông Tám: Một trăm nghìn đồng 1 lít.
Bà Mai Thị Sinh vợ của ông Tám miệng luôn nở nụ cười, bà bảo rằng đời bà nghèo khó nhưng các con vẫn được ăn học và có việc làm ổn định, cuộc sống không phải khổ như ông bà trước đây. Đó là điều khiến bà hạnh phúc nhất.
Băng. "Thật biết ơn Đảng, ơn Chính phủ biết quan tâm đến đời sống nhân dân thế là tốt quá. Trước đây cuộc sống 2 vợ chồng nuôi 5 đứa con vất vả lắm. Mà ngày xưa không có chuyện đi làm thuê hoặc kiếm việc làm dễ như bây giờ đâu, bây giờ còn đỡ hơn nhiều…”
Gia đình chị Hoàng Thị Thìn sinh năm 1976 ở thôn Sầy cũng là hộ nghèo đã nhiều năm. Hơn 10 năm trước chồng chị bị bệnh suy thận rồi qua đời. Một mình chị nuôi 2 bố mẹ già và 2 người con nhỏ. Cuộc sống khó khăn, cơ cực tưởng như không lối thoát. Ấy vậy mà nhờ các chính sách giàm nghèo, chị Thìn dược tập huấn khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, nhờ vậy chị có thêm kiến thức trong chăm sóc hơn 60 gốc vải thiều, cam vinh. Đặc biệt khi được hỗ trợ giống cây keo lai từ chương trình dành cho huyện 30a, chị trồng được 1 ha rừng keo đang vào độ xanh tốt. Nhìn những cây vải được chăm sóc đúng kỹ thuật, cây cam sai trĩu quả, rừng keo lai thay đổi từng ngày …. Đó là niềm hy vọng rõ ràng nhất đề chị tin rằng mình sẽ sớm thoát nghèo.
Băng. "Tôi cũng được tập huấn, người ta bảo, dạy tôi cách trồng, chăm sóc cây ăn quả. Tôi cũng có 1 héc ta rừng keo, tôi cũng muốn sau này bán đi sẽ xóa được đói nghèo…”
Gia đình ông Tám, bà Sinh hay chị Thìn chỉ là là 1 trong số hàng trăm hộ nghèo ở xã Tuấn Đạo, huyện Sơn Động đang chăm chỉ làm lụng vươn lên thoát nghèo. Theo như lời của cán bộ Lao động thương binh và xã hội xã Tuấn Đạo thì cách nghĩ của hộ nghèo nay đã khác nhiều so với trước . Ông Hoàng Quốc Huy nói.
Băng. " Trước đây chủ yếu người ta trông chờ vào hỗ trợ của nhà nước, người ta tiêu pha, ăn phung phí, bây giờ người ta không thế nữa, người ta tự đầu óc sáng tạo, người ta chịu khó chăn nuôi thêm con lợn con gà để có thêm thu nhập cho gia đình. Nói chung đầu óc của người nghèo bây giờ thay đổi hơn trước rất nhiều…”
Xã Tuấn Đạo huyện Sơn Động có hơn 5100 hộ dân, gần nửa số đó là đồng bào dân tộc thiểu số. Nếu như trước đây hơn nửa dân số của xã là hộ nghèo thì nay tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới chỉ còn 16.7%. Kết quả tích cực này giúp Tuấn Đạo vươn lên xếp thứ 2/21 xã trong huyện Sơn Động về nỗ nực vươn lên thoát nghèo. Lãnh đạo xã tin rằng khi nhận thức thay đổi thì đói nghèo sẽ không còn cơ hội đeo bám . Ông Nguyễn Văn Phòng – Chủ tịch UBND xã Tuấn Đạo huyện Sơn Động bày tỏ.
Băng. " Nhiệm vụ giảm nghèo luôn được đặt lên hàng đầu. Ở đây chúng tôi coi trọng công tác tư vấn nâng cao kiến thức cho người dân, trong quá trình tiếp cận các nguồn vốn của nhà nước thực sự hiệu quả. Chúng tôi xác định nhu cầu nào là cấp bách , cần thiết của người dân để chúng tôi đầu tư. Chúng tôi đã phát huy được tinh thần trách nhiệm chủ động giảm nghèo của người dân. Tư tưởng trông chờ ỷ lại đã được khắc phục tương đối tốt. Chính từ những mô hình đầu tư hỗ trợ mang tính chất kích cầu chúng tôi đã tạo được phong trào thi đua phát triển kinh tế, người dân tự hỗ trợ nhau về kiến thức vốn, đầu ra cho sản phẩm, nên bây giờ phong trào giảm nghèo ở xã Tuấn Đạo thực sự sâu rộng…”
Cùng với xã Tuấn Đạo, thị trấn An Châu huyện Sơn Động cũng đặc biệt quan tâm đến công tác giảm nghèo. Thị trấn có dân số trên 5000 người. Một nửa số đó gắn với hoạt động dịch vụ thương mại, nửa còn lại làm nông nghiệp. Để hỗ trợ người dân thoát nghèo, Đảng ủy, UBND thị trấn xác định xuất khẩu lao động, đào tạo nghề, hỗ trợ tìm việc làm cho người đến tuổi lao động là giải pháp bền vững nhất. Bởi có việc làm là có thu nhập ổn định, đó là nền tảng giúp các hộ gia đình thoát cảnh khó nghèo. Từ định hướng đó, nhiều lớp học nghề, đào tạo việc làm, xuất khẩu lao động được thị trấn quan tâm. Đến nay đã có gần 100 thanh niên trong độ tuổi lao động được hỗ trợ vay vốn đi làm việc tại nước ngoài. Thị trường chủ yếu là Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Gia đình bà Nông Thị Yên ở khu Cai, thị trấn An châu có con đi làm việc có thời hạn tại Hàn Quốc đã 5 năm. Bà Yên thực sự phấn khởi, bởi từ nguồn tiền gửi về, gia đình bà đã xây được căn nhà 3 gian khang trang, nền cao và sạch đẹp. Bà Yên kể lại.
Băng. Ngày trước nhà chưa bao tường, cắm bằng tre, lũ vào đổ hết, sau đó nhà cố gắng làm bao tường đỡ hơn. Nhưng năm 2008 lũ tràn qua cửa sổ đằng sau vào nhà thế là đổ hết. Nhà có con lợn con gà là trôi sạch. Thằng con nó bảo thôi thế để con đi xuất khẩu lao động, giờ có chính sách hỗ trợ như thế thì để con đi kiếm thêm đồng tiền sửa nhà cho cao ráo, đỡ lũ…”
Sơn Động là huyện vùng cao của tỉnh Bắc Giang. Địa hình nơi đây có độ dốc lớn, đất nông nghiệp ít, giao thông đi lại nhiều khó khăn.Trình độ dân trí thấp, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ trên 50% dân số. Nếu như trước đây người dân thường có thói quen lười lao động, trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ từ nhà nước. Thì nay công tác tuyên truyền được dầy mạnh, việc vận động từ các cấp chính quyền, đoàn thể thực hiện tích cực hơn, mỗi hộ dân đã từng bước thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Họ chủ động tìm kiếm việc làm và biết nhân lên kế sinh nhai từ các chủ trương, chính sách của nhà nước. Nhờ vậy mà tỷ lệ hộ nghèo của huyện năm 2010 là trên 53% theo chuẩn cũ, nay chỉ còn 35% theo chuẩn mới. Riêng 3 năm trở lại đây tỷ lệ hộ nghèo giảm 5%. Đây là kết quả tích cực trong công tác giảm nghèo mà trong đó có sự chủ động nâng cao nhận thức, nỗ lực thoát nghèo của từng hộ dân.
Phần 2: CHUNG SỨC CÙNG NGƯỜI DÂN THOÁT NGHÈO.
Dẫn : Thưa quý vị thính giả! Yếu tố quyết định để chương trình giàm nghèo được thực hiện nhanh và hiệu quả chính là ý chí phấn đấu tự vươn lên của bản thân hộ nghèo, cận nghèo. Bên cạnh đó vai trò lực lượng cán bộ chuyên trách giảm nghèo cơ sở cũng hết sức quan trọng. Nếu không hết tâm hết sức với nhiệm vụ thì việc tiếp cận với các hộ nghèo để phổ biến, tuyên truyền các chính sách của Đảng và Nhà nước thực sự là thách thức khó khăn. Vậy Các cấp ủy đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ chuyên trách đã làm gì để đồng hành cùng hộ nghèo vượt khó. Đó là nội dung có trong phần 2 của loạt phóng sự : Nỗ lực giảm nghèo, bài viết có nhan đề : " Chung sức cùng người dân thoát nghèo”, mời quý thính giả cùng nghe.
Vất vả, kiên trì là điều hiển nhiên khi nói về công việc của những cán bộ chuyên trách công tác giảm nghèo. Nhiệm vụ của họ là đến từng hộ gia đình, tiếp xúc để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng đồng thời tuyên truyền định hướng cho họ theo cách cầm tay chỉ việc. Công việc này thực sự đòi hỏi nhiều tâm huyết, bởi đường sá xa xôi, tâm lý hộ nghèo còn bị động, không cởi mở khiến cán bộ làm công tác giảm nghèo gặp rất nhiều khó khăn. Anh Hoàng Quốc Huy – Xã Tuán Đạo huyện Sơn Động nói.
Băng. " Người ta ở toàn ở khe rừng khe rừng, khe núi rất hẻo lánh chứ không ở tập trung nên mỗi khi đến từng hộ cũng rất vất vả vì đường sá đi lại rất khó khăn. Chúng tôi cũng cố gắng lắm và dần dần mình nói nhiều lần thì người ta cũng nghe theo mình và mở mang đầu óc hơn…”
Tiếp cận hộ nghèo đã khó, nhưng làm thế nào để tuyên truyền, vận động hộ nghèo thay đổi tư duy, cách thức canh tác còn khó gấp vạn lần. 60 cây vải thiều của gia đình chị Hoàng Thị Thìn là ví dụ: Theo phương pháp canh tác truyền thống người dân để cây vải tự vươn cao, xòe tán tự do và họ cho rằng cây càng to sẽ cho nhiều quả. Anh Hoàng Quốc Huy đã phải đi đi lại lại không đếm được bao nhiêu lần mới thuyết phục chị Thìn tin rằng chặt bớt lá, cành, hạ thấp tán sẽ ít sâu bệnh, chăm sóc dễ và năng suất cao hơn.. Chị Thìn phấn khởi kể lại.
Băng chị Thình. "Tôi cũng được tập huấn là tôi phát tán tròn, được đợt lộc nào là tôi phun thuốc sâu để giữ được lộc, đến khi ra hoa sai quả là tôi thắng lợi. Nhưng tôi cũng phải chăm chỉ chịu khó làm cỏ cho cây. Tôi cũng muốn 1hoặc 2 năm nữa thôi là không còn nghèo nữa…”
Băng anh Huy Lắm lúc cũng nản chả muốn đến hướng dẫn họ nữa. Nhưng tôi nghĩ quê tôi đồng đất bao la, rộng như thế mà nhiều cây cho thu nhập như vải, bòng cam… thế mà người ta không chịu trồng và chăm sóc thế chả nghèo mãi. Thế rồi chúng tôi đưa giống cây về cho họ trồng, hướng dẫn họ cách chăm sóc họ cũng nghe ra và làm theo dần cũng có thu nhập…”
Vất vả khó khăn là vậy nhưng cấp ủy đảng chính quyền từ thôn, xã và đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo luôn hết tâm, hết sức gắn bó, gần gũi lắng nghe tâm tư nguyện vọng của hộ nghèo. Chính họ sẽ là người nắm bắt nhu cầu để biết hộ nghèo ở từng địa phương đang thiếu gì, cần gì, từ đó tham mưu các giải pháp hỗ trợ người nghèo phù hợp. Bà Vũ Thị Tú – Trưởng phòng LĐTB&XH huyện Sơn Động cho biết.
Băng: Mỗi cán bộ ngay từ đâu năm đã phân công rõ nhiệm vụ. Đến từng xã để nắm rõ tình hình, từng đối tượng, nhu cầu của nhân dân, bất cập trong nhân dân. Sau đó hàng tháng báo cáo tại cuộc họp chi bộ , cuộc họp cơ quan. Từ đó mới thấy nhu cầu thực tế. Bởi áp dụng các chính sách không phải nơi nào cũng giống nhau tôi ví dụ có xã không có nhu cầu việc làm như Thanh Sơn, Thanh Luận, họ gần công ty Than 45 thì nhu cầu việc làm không cao. Nhưng có những xã lại có nhu cầu việc làm thì chúng tôi phải căn cứ vào thực tế để xây dựng đề án để tham mưu cho phù hợp. Hay những chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất cũng phải bám sát vào nghị quyết Đại Hội đảng bộ nhưng phải phù hợp với điều kiện tự nhiên không phải xã nào cũng như xã nào…”
Thực hiện Nghị quyết 30a/2008NQ-CP của chính phủ, tỉnh Bắc Giang đã ban hành Đề án giảm nghèo nhanh và bền vững, Sơn Động cũng ban hành quyết định số 318/ QĐ- HU ngày 25/8/2009 về việc thành lập Ban chỉ đạo tổ chức thực hiện Đề án giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2009 -2020. Từ chủ trương này, hơn 850 nghìn tỷ đồng đã được đầu tư về Sơn Động. Đường giao thông được cứng hóa tỷ lệ trên 80% trụ sở nhà văn hóa xã Thôn được đâu tư khang trang, sạch đẹp. Hệ thống trạm y tế, trường học, và đường điện về tận thôn, bản được đầu tư. Cùng với đó là cách chính sách hỗ trợ sản xuất nông, lâm nghiệp, đào tạo nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động, tín dụng ưu đãi được quan tâm đặc biệt. Nhờ đó hộ nghèo được nâng cao chất lượng cuộc sống về mọi mặt. Ông Nghiêm Xuân Hưởng, - Bí thư huyện ủy Sơn Động cho biết.
Băng. " Trong những năm tới thì nguồn lực đầu tư từ chương trình 30 a sẽ ít dần đi, số hộ nghèo còn lại rất khó khăn để thoát nghèo bền vững nên chúng tôi cần tập trung cao phát huy nguồn lực tại chỗ của địa phương. Chúng tôi nghĩ rằng phải có sự chung tay của toàn xã hội, đặc biệt là MTTQ và các đoàn thể nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân hỗ trợ nhau cùng thoát nghèo, nâng cao đời sống. Và điều quan trọng nữa là phải tuyên truyền mạnh hơn về các mô hình hiệu quả để nhân rộng cho nhiều người học tập kinh nghiệm sản xuất và tự thoát nghèo…”
Trong niềm vui của mỗi người nghèo, mỗi gia đình vượt khó cũng lấp lánh niềm vui và chứa đựng nhiều nỗ lực của những cán bộ chuyên trách làm công tác giàm nghèo và đó cũng là thành công chung của cả hệ thống chính trị. Chính từ trách nhiệm, nhiệt huyết của từng cán bộ, từng tổ chức đoàn thể đã giúp Sơn Động giảm thành công tỷ lệ hộ nghèo theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015 -2020. Đây cũng là nền tảng để Sơn Động sớm thoát nghèo, hướng đến những mục tiêu cao hơn, giúp người dân có chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Phần 3: CHÍNH SÁCH GIÚP NGƯỜI NGHÈO VƯỢT KHÓ
Thưa quý vị thính giả! Cùng với những chương trình hỗ trợ từ trung ương, tỉnh Bắc Giang cũng ban hành những chính sách đặc biệt dành cho hộ nghèo như: phân loại hộ nghèo, tìm chính sách đầu tư phù hợp giúp hộ nghèo vươn lên. Điều đặc biệt tỉnh còn ban hành nhiều cơ chế hỗ trợ như : tiền điện, miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hỗ trợ tiền mua thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, hỗ trợ học phí cho con em hộ nghèo…. Tất cả những việc làm đó đã mang lại niềm vui, sự an tâm, tự tin cho hàng nghìn hộ nghèo khi họ được tiếp cận và hưởng thụ các chính sách hỗ trợ của Đảng, Nhà nước.
Để hiểu rõ hơn về nỗ lực giảm nghèo của tỉnh Bắc Giang ,mời quý vị và các bạn nghe cuộc trao đổi giữa PV chương trình với ông Lê Anh Dương – Phó chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang.
PV: Có thể nói giảm nghèo là nhiệm vụ đầy khó khăn thách thức nhưng khi tỉnh xác định giải quyết nhu cầu việc làm, tạo sinh kế cho người dân là nhiệm vụ quan trọng thì đã có những việc làm cụ thế gì thực hiện nội dung này thưa ông ?
Bên cạnh đẩy mạnh tuyên truyền, chúng tôi tập trung vào một số việc khác ví dụ như tập trung cao cho việc tạo sinh kế cho người nghèo. Với các hộ nghèo ở Sơn Động, Lục Ngạn, Lục nam họ có quỹ đất rừng. Tỉnh rà soát lại quỹ đất rừng đề giao cho người dân. Thứ 2 vận động nhân dân nhận giao khoán, chăm sóc rừng để có thu nhập. Nơi có diện tích đất nông nghiệp thì chuyển đổi từ trồng lúa kém hiệu quả sang trông cây ăn quả. Chúng tôi đã tập huấn kỹ thuật trồng cây ăn quả, hỗ trợ việc bao tiêu sản phẩm cho bà con. Ngoài ra đã ứng dụng nhiều mô hình giảm nghèo có hiệu quả như ở Sơn Động có nuôi ong hoặc trồng cây dược liệu dưới tán rừng hiệu quả. Hay mô hình chăn nuôi cây con đặc sản như Đông trùng hạ thảo, nấm lim, đại gia súc….. Yên Thế tập trung nuôi dê, Hiện dàn dê của Yên Thế phát triển rát mạnh. Tập trung hỗ trợ sinh kế như vậy thì người dân sẽ tự làm giàu và thoát nghèo ngay trên mảnh đất của mình.
Ông Lê Ánh Dương.
PV: Ngoài vấn đề sinh kế cho người dân thì các nhu cầu thiết yếu khác như nhà ở, y tế, giáo dục, nước sinh hoạt hợp vệ sinh được tỉnh chỉ đạo thực hiện như thế nào thưa ông?
Ông Lê Ánh Dương: Ngoài ra chúng tôi tập trung giải quyết 3 khó khăn của người dân. 1 Nhà ở. Hiện nay người nghèo có nhà ở xuống cấp được thu hẹp nhanh. Từ nay đến 2010 sẽ hoàn thành việc xóa 1500 nhà tạm còn cho người nghèo . thứ 2 là nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho bà con ở các bản. Nơi thì làm đập, làm hồ, nơi thì dẫn nước tự chày . Tỉnh triển khai hàng trăm dự án cấp nươc sạch cho bà con. Vấn đề giáo dục 100% con em đồng bào dân tộc dù ở nơi sâu, xa nhất đều được đến trường. Về Y té: 100% hộ nghèo đều có bảo hiểm y té Đối với các vùng còn lại tỷ lệ bao phủ BHYT 98,5%. Còn vấn đề nữa chúng tôi rất quan tâm đó là đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầngcho vùng nghèo, huyện nghèo bằng nhiều nguồn lực từ trung ương, địa phương, nghị quyết 06, 07 của HĐND tỉnh,Nghị quyết đầu tư cho 36 xã khó khăn nhất tỉnh, tập trung nâng cấp đường giao thông nâng cấp cầu, ngầm qua sông, suối…. Hiện nay cơ quan khắc phục được tình trạng chia cắt mùa mưa lũ. Kéo điện lưới về từng thôn bản, hiện tỷ lệ dân được dùng điện là 99,9%. Tại Sơn Động còn một nhóm hộ rất nghèo. Họ ở vùng lõi rừng QG khu bảo tồn thiên nhiên Khe Rỗ. Trước họ thuộc quản lý tỉnh Lạng Sơn, nay bàn giao về Bắc Giang. Hiện nay tỉnh đang phối hợp với ủy ban dân tộc để di dời họ ra khỏi vùng lõi rừng để người ta có cuộc sống ổn định, tránh tình trạng du canh du cư, phá rừng rồi họ cứ nghèo liên tục. Khi dự án này hoàn thành thì cơ bản chúng ta kiểm soát dược tình hình. Từng vùng, từng khu vực đều có chính sách, giải pháp, chắc chắn giàm nghèo BG sẽ bền vững. 8 năm vừa rồi trung bình mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo 2%, riêng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và huyện nghèo 30agiảm được tỷ lệ hơn 4% . Đây là thành tích rất tốt của Băc Giang.
PV Vậy nhiệm vụ cần tập trung trong thời gian tới để giảm nghèo bền vững là gì thưa ông ?
Ông Lê Ánh Dương: Đây là nhiệm vụ thường xuyên liên tục được xác định trong các nghị quyết đại hôi Đảng cấc cấp. Chúng tôi sẽ đi sâu vào một số nhiệm vụ chính 1 tạo sinh kế cho người dân. Bước này ngoài giúp bà con phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, chăn nuôi thì chúng tôi chú trọng đào tạo nghề. Hiện nay chúng tôi đang thành lập Khoa Dân tộc nội trú tại trường cao dẳng nghề Việt Hàn. Dự tínhsẽ ban hành chính sách thu hút con em hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số vào học nghề . Chúng tôi tính mỗi một gia đình có 1 người con được học nghề và đi làm thì hộ đó sau 3 năm chắc chắn sẽ thoát nghèo. Thứ hai là thu hút đầu tư,để đưa doanh nghiệp mở nhà máy tại vùng sâu vùng xa để giải quyết việc làm cho con em lao động ở nông thôn. Trong tất cả các dự án bao giờ chúng tôi cũng ưu tiên cho con em cá hộ mất dất sản xuất và con em vùng đồng bào dân tộc, con em hộ nghèo để giải quyết công ăn việc làm tại chỗ. Thứ 3 nữa là tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức đề bà con nhất là hộ nghèo, hộ cận nghèo có ý chí, có niềm tin vươn lên thoát nghèo không ỳ lại vào cộng đồng, không ỷ lại vào nhà nước. Đó mới là cách thoát nghèo bền vững.
PV Xin cảm ơn ông về những thông tin vừa trao đổi.
Thưa quý vi thính giả! Giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới và xây dựng dất nước. Với phương châm dân giàu thì nước mới mạnh và không còn ai bị bỏ lại phía sau, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã dốc tâm đồng hành cùng người nghèo vượt khó. Còn phía người nghèo cần hiểu rằng muốn thoát nghèo không còn cách nào khách phải vươn lên bằng nỗ lực, ý chí, sức lao động của bản thân. Bởi phải biết vươn lên cộng với sự trợ giúp, sẻ chia từ cộng đồng xã hội thì người nghèo mới thoát nghèo bền vững.
Vẫn biết việc xóa đói nghèo là việc làm chẳng dễ dàng nhưng rõ rằng khi chính quyền nỗ lực và người dân đồng lòng, quyết tâm vươn lên chắc chắn đói nghèo không phải là mục tiêu không thể không xóa bỏ.
CẢI THIỆN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH
QUYẾT LIỆT BẰNG HÀNH ĐỘNG
Giải B, năm 2020
Nhóm tác giả: Thu Thủy, Quang Vĩnh
Thể loại: Phóng sự Truyền hình
P |
TV 1: Thưa quý vị và các bạn! Trong tuần qua, tỉnh Bắc Giang đã tổ chức một hội nghị trực tuyến quy mô từ cấp tỉnh đến cấp xã với sự tham gia của hơn 2 nghìn người là cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chuyên môn để triển khai kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và bộ chỉ số năng cao năng lực cạnh tranh các sở ngành, địa phương (DDCI). Điều này một lần nữa cho thấy quyết tâm của tỉnh Bắc Giang trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Điều đáng nói, sự quyết tâm ấy không chỉ được thể hiện bằng hành động mà được cụ thể bằng các biện pháp quyết lệt. Đây là câu chuyện của chuyện trong tuần hôm nay.
QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG
PV: Ông Dương Văn Thái – Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang
(Kế hoạch chuẩn bị kỹ, rõ người rõ việc, rõ trách nhiệm... đồng bộ của cả hệ thống chính trị, tham gia tích cực... Chúng ta quyết liệt, đồng bộ tập trung cao để thực hiện... Tôi đề nghị quán triệt sâu sắc để cùng nỗ lực, tập trung, quyết tâm cao hơn... cải thiện mạnh mẽ hơn...)
Đó là khẳng định của Chủ tịch UBND tỉnh Dương Văn Thái tại hội nghị triển khai Kế hoạch nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và bộ chỉ số năng cao năng lực cạnh tranh các sở ngành, địa phương (DDCI) cách đây vài ngày. Điều này một lần nữa cho thấy quyết tâm của tỉnh Bắc Giang trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Với quyết tâm tăng điểm, tăng thứ hạng, năm nay tỉnh Bắc Giang đặt mục tiêu xếp ở vị trí 30/63 tỉnh thành, cải thiện ít nhất 10 bậc trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Quyết tâm này đã được cụ thể hóa trong Kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI. Điều đáng nói, Kế hoạch năm nay có nhiều điểm mới, đột phá so với Kế hoạch những năm trước đó. Tỉnh Bắc Giang đã thẳng thắn nhìn nhận rõ hạn chế cần khắc phục, xác định rất rõ từng chỉ tiêu phải nâng điểm đối với 10 nhóm chỉ số thành phần. Trong đó, tập trung khắc phục hạn chế của 4 chỉ số giảm điểm: Chi phí gia nhập thị trường, chi phí thời gian, chi phí không chính thức, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; cải thiện và duy trì điểm số của 6 chỉ số tăng điểm. Từng chỉ số phải nâng điểm đều được giao trách nhiệm, chỉ rõ vai trò chủ trì và phối hợp đối với từng ngành, từng địa phương. Điều này đã làm thay đổi nhận thức về năng lực cạnh tranh của các địa phương, sở ngành.
PV: Ông Lưu Xuân Vượng, Giám đốc sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Giang
(Tổ chức thực hiện là nhiệm vụ chính trị... Việc giao chỉ tiêu tăng điểm là cần thiết quan trọng, cấp bách...).
PV: Ông Trần Quang Tấn, Giám đốc sở Công Thương Bắc Giang
(Thấy được quyêt tâm từ người đứng đầu cao nhất đến cơ sở... ngành Công thương ý thức rõ... trách nhiệm của người đứng đầu, người thực thi công việc đồng hành cùng doanh nghiệp).
Việc giao khoán nhiệm vụ đối với các ngành địa phương sẽ khắc phục được tình trạng xây dựng Kế hoạch theo kiểu chung chung, hình thức, không ai phải chịu trách nhiệm khi mục tiêu không đạt... Quyết tâm đã có... vấn đề ở chỗ là hành động thế nào để mục tiêu tăng điểm, tăng thứ hạng để tạo được niềm tin của doanh nghiệp, của nhà đầu tư.
QUYẾT LIỆT TRIỂN KHAI
Để cụ thể hóa mục tiêu tăng điểm tăng thứ hạng, thời gian qua, tỉnh UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt các biện pháp, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo, chấn chỉnh việc thực hiện biện pháp khắc phục của các cơ quan, đơn vị... Ban chỉ đạo nâng cao chỉ số PCI được thành lập... Lần đầu tiên, tổ công tác tiếp nhận và xử lý thông tin, phản ánh của doanh nghiệp, nhà đầu tư ra đời gồm 5 thành viên đại diện cho 4 cơ quan là Văn phòng UBND tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Nội vụ, Đài PTTH. Với việc công khai các địa chỉ tiếp nhận; bảo mật thông tin và kịp thời giải quyết, các doanh nghiệp có thể yên tâm khi phản ánh, kiến nghị về những gây phiền hà, sách nhiễu của cán bộ công chức trong thực thi công vụ và khó khăn, vướng mắc trong quá trình đầu tư, sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
PV: Ông Lê Tuấn Phú, Chánh Văn Phòng UBND tỉnh, Tổ trưởng tổ công tác
(Trên cơ sở tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin ở 3 mức độ khác nhau…)
Tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt, đóng dấu và trả kết quả tại chỗ, gọi là quy trình "5 tại chỗ” là một sự đột phá của sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Giang khi thực hiện giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một việc mới và khó nhưng không thể không thực hiện để hướng tới việc tiết kiệm chi phí thời gian đối với doanh nghiệp.
PV: Ông Nguyễn Cường, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Giang
PV: Chị Nguyễn Thị Hạnh, Công ty Bio Green Hà Nội
Xác định rõ trách nhiệm. Các sở, ngành, địa phương cũng đã chủ động rà soát, xác định những vấn đề tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngành, địa phương mình và tập trung triển khai các biện pháp khắc phục.
PV: Ông Trương Văn Nam, Chánh Thanh tra tỉnh Bắc Giang
PV: Ông Phạm Văn Thịnh, Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bắc Giang
Với quyết tâm cải thiện tăng điểm, tăng thứ hạng, tỉnh Bắc Giang đã mạnh dạn tạo sự đột phá khi xây dựng và triển khai bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ban, ngành, địa phương (DDCI). Việc khảo sát đánh giá chỉ số DDCI trong Đề án Bộ tiêu chí lần này được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 gồm gồm một số sở, ban, ngành thuộc UBND tỉnh, một số cơ quan ngành dọc Trung ương trên địa bàn tỉnh. Nhóm 2 gồm UBND các huyện, thành phố. Thay vì 4 chỉ số thành phần như mọi năm, Bộ tiêu chí năm nay mở rộng lên 9 chỉ số đối với cấp huyện thành phố và 8 chỉ số đối với các sở ngành. (Bắn chữ: Nhóm chỉ tiêu từng nhóm). Các tiêu chí bám sát vào các chỉ số thành phần của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI. Trong quá trình thực hiện sẽ được giám sát chặt chẽ.
PV: Ông Đồng Anh Quân, Giám đốc Trung tâm XTĐT và PTDN tỉnh Bắc Giang
PV: Ông Nguyễn Đức Kha, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang
Rõ ràng, nhiều sở, ngành, địa phương trong tỉnh đã chủ động rà soát, xác định những vấn đề tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngành, địa phương mình và tập trung triển khai các biện pháp khắc phục... Nếu những "điểm nghẽn” được khắc phục với trách nhiệm thực thi đồng bộ thì mục tiêu cải thiện 10 bậc trong bảng xếp hạng và nằm trong nhóm các địa phương có chất lượng điều hành kinh tế "khá” của cả nước chắc chắn không quá khó khăn.
PTV2: Việc nâng hạng các chỉ số PCI không chỉ thu hút nguồn lực đầu tư từ doanh nghiệp mà còn giúp cho bộ máy hành chính vận hành gọn nhẹ hơn, hiệu quả nâng lên rõ rệt. Để Kế hoạch không nằm trên giấy như khẳng định của Chủ tịch UBND tỉnh, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của các cấp các ngành, của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực, đồng hành, trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp”.
NHỮNG "PHÁO ĐÀI” CHỐNG DỊCH COVID-19
Giải B, năm 2020
Tác giả: Việt Anh
Thể loại: Phản ánh
X |
ung kích trong tuyên truyền, vận động, gương mẫu thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, cùng với cả hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, hội viên các đoàn thể ở nhiều thôn, bản, tổ dân phố đã góp sức đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ an toàn địa bàn dân cư.
Những ngày không quên
Một ngày đầu tháng 9, tôi đến xã Yên Định, huyện Sơn Động (Bắc Giang) sau khi các chốt kiểm dịch được dỡ bỏ theo quy định. Đón tôi tại trụ sở, đồng chí Trương Văn Hải, Bí thư Đảng ủy xã vui mừng cho biết: "Coi như chúng tôi đã chiến thắng giai đoạn đầu chống "giặc” Covid-19 khi không để dịch bùng phát trong cộng đồng.Các trường hợp dương tính với virus SARS-CoV-2 chỉ trong một gia đình. Bản thân tôi cũng có những ngày không quên khi tham gia phòng, chống dịch. 25 năm làm cán bộ ở địa phương nhưng đây là lần đầu tiên tôi phải họp đêm; ăn, ngủ tại cơ quan gần một tháng”.
Gặp gỡ những cán bộ, người dân ở Yên Định, tôi mới thấy những gian nan, vất vả trong công tác phòng, chống dịch trên địa bàn. Kể từ ngày 5/8, khi phát hiện trường hợp đầu tiên bị nhiễm virus SARS-CoV-2, cả hệ thống chính trị huyện Sơn Động nói chung và xã Yên Định nói riêng đã bước vào "trận đánh” ngăn chặn dịch lây lan trong cộng đồng.
Khoảng 2 giờ 30 phút ngày 5/8, tất cả các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ xã Yên Định được triệu tập họp đột xuất với Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 của tỉnh và huyện. Với mục tiêu không để dịch lây lan, Đảng ủy xã đã ban hành nghị quyết chuyên đề triển khai công tác phòng dịch.Theo đó, 23 đồng chí cán bộ được yêu cầu ăn, ngủ tại trụ sở để trực tiếp tham gia phòng, chống dịch; đồng thời huy động thêm 15 đồng chí là dân quân cơ động bảo vệ 5 chốt kiểm dịch và phun thuốc khử trùng. Xã chỉ đạo thành lập 6 tổ phòng dịch ở các thôn. Để phát huy tinh thần xung kích, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, các đồng chí bí thư chi bộ thôn được giao nhiệm vụ làm tổ trưởng.
Từ giới thiệu của Đảng ủy xã, tôi tìm gặp Bí thư Chi bộ thôn Đồng Chu Lã Văn Quang. Cũng như những người dân khác, khi nghe tin thôn có người bị nhiễm virus SARS-CoV-2, ông Quang rất bất ngờ bởi không nghĩ ở xã xa xôi như Yên Định lại có trường hợp đầu tiên của tỉnh Bắc Giang mắc dịch. Công việc bận rộn, tất bật hơn khi xác định thôn là ổ dịch. Tất cả đường đi, lối lại bị phong tỏa, người dân được yêu cầu dừng mọi hoạt động, ở yên trong nhà. Vượt qua tâm trạng hoang mang, lo lắng, hơn 20 đảng viên Chi bộ tích cực phối hợp cùng ngành chức năng điều tra dịch tễ từng hộ gia đình nhằm tìm ra người liên quan và kịp thời khoanh vùng.
Ông suy nghĩ gì trong thời gian chống dịch vừa qua? Tôi hỏi. "Không chỉ tôi mà các đảng viên nơi đây đều có suy nghĩ cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, tiên phong của mình trong việc thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh để mọi người cùng noi theo"-ông Quang nói.
Quả thực là vậy, có sự nỗ lực của cán bộ, đảng viên nên xã Yên Định vẫn kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh. Qua rà soát, 41 trường hợp F1 được cách ly tập trung tại khu cách ly của tỉnh và huyện; 502 trường hợp F2, 750 trường hợp F3 được cách ly y tế tại nhà. Đến nay, tất cả các trường hợp này đều có sức khỏe bình thường, qua xét nghiệm cho kết quả âm tính với virus SARS-CoV-2. Thăm một số hộ gia đình xung quanh khu vực sinh sống của các trường hợp nhiễm Covid-19, tôi thấy nhiều người dân ghi nhận, đánh giá cao nỗ lực của cán bộ, đảng viên. Chính việc hằng ngày, cán bộ, đảng viên phối hợp đi rà soát y tế, phun thuốc khử trùng, tuyên truyền phòng dịch... đã giúp bà con vững tâm, cùng phối hợp phòng, chống dịch.
Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên ở thôn Đồng Chu còn thực hiện tốt việc cấp phát vật tư y tế phòng dịch cho các hộ dân, trong đó ưu tiên những hộ ở gần nhà các trường hợp bị nhiễm virus SARS-CoV-2; lương thực, thực phẩm cũng được phân bổ hợp lý, công khai, minh bạch. Những ngày chống dịch vừa qua đã thể hiện vai trò của các cán bộ, đảng viên xã Yên Định, đồng thời thể hiện tinh thần đoàn kết của nhân dân trong xã.
Không chủ quan, lơ là
Tính đến thời điểm này, đợt dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh đã tạm lắng khi nhiều ngày qua không có ca lây nhiễm mới trong cộng đồng. Tuy nhiên, cấp ủy, chính quyền các địa phương vẫn luôn tập trung đẩy mạnh tuyên truyền đến người dân, yêu cầu thực hiện nghiêm các biện pháp phòng dịch, không chủ quan, lơ là.
Chạy xe dọc tuyến quốc lộ 31 hướng Bắc Giang - Hải Dương, tôi thấy tại dốc Bưởi, xã Đan Hội (Lục Nam), chốt kiểm dịch vẫn được duy trì nhằm bảo đảm không để sót lọt người, phương tiện có nguy cơ mang dịch bệnh từ tỉnh Hải Dương về Bắc Giang. Ngoài chốt kiểm dịch tại quốc lộ 31, trên địa bàn xã Đan Hội còn một đường nhỏ qua thôn Húi sang xã Hưng Đạo, TP Chí Linh (Hải Dương).
Những tuần qua, Đảng ủy xã đã chỉ đạo cán bộ, đảng viên trong xã tuyên truyền, vận động người thân trong xã tạm dừng mọi hoạt động giao lưu với người dân tỉnh Hải Dương mặc dù hiện nay có nhiều con em ở xã đã lấy vợ, chồng và làm việc bên đó. Trong thời gian dịch bệnh diễn biến phức tạp, để tránh hội họp đông người, nhiều nhóm zalo như nhóm bí thư các chi bộ, nhóm trưởng các dòng họ… đã được thành lập để hằng ngày kịp thời báo cáo tình hình ở từng thôn, xóm. Cùng với rà soát những người về từ vùng dịch, 5 chi bộ thôn còn quan tâm rà soát công dân trên địa bàn trở về từ Trung Quốc, buôn bán tại các cửa khẩu giáp biên giới, nhất là những người xuất cảnh trái phép.
Bí thư Chi bộ thôn Bưởi Trương Thị Trình chia sẻ: "Lúc đầu khi chúng tôi đến tuyên truyền, vận động người dân khai báo y tế để rà soát nhiều hộ ngại không muốn cho biết người thân xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm ăn. Phải đi lại nhiều lần, giải thích tác hại nếu họ trở về mang theo virus SARS-CoV-2 mà không cách ly kịp thời sẽ ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng, dần dần người dân đã hiểu và thành thật khai báo. Qua rà soát, thôn có 6 người xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc làm ăn, trong đó có một người trở về từ tháng 1 và đến nay sức khỏe vẫn bình thường. Còn các trường hợp khác, gia đình cam kết sẽ khai báo và thực hiện cách ly y tế ngay khi trở về”.Không chỉ rà soát, tuyên truyền, thời gian qua, cấp ủy, chính quyền cơ sở còn vận động người dân đóng góp lương thực, thực phẩm như: Gà, vịt, rau, củ, quả... ủng hộ lực lượng làm nhiệm vụ tại chốt kiểm dịch dốc Bưởi.
Cùng với các chi bộ ở xã Yên Định, xã Đan Hội, thời điểm này, các đảng viên ở hơn 3,1 nghìn chi bộ địa bàn dân cư đang tích cực tuyên truyền đến người dân tinh thần chống dịch như chống giặc và tuyệt đối không được chủ quan, lơ là. Theo dự báo, dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh xác định một trong các nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới là phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy cơ sở, địa bàn dân cư trong giám sát, phát hiện những người về từ vùng có dịch, những người có liên quan đến dịch Covid-19 cư trú, lưu trú trên địa bàn. Nếu mỗi thôn, bản, tổ dân phố là một "pháo đài” chống dịch thì các đảng viên trong chi bộ là những người thợ chủ công xây dựng nên "pháo đài” ấy. Đây cũng là đội ngũ trực tiếp góp phần ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh ở cơ sở.
Box: Thời điểm này, đợt dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh đã tạm lắng khi nhiều ngày qua không có ca lây nhiễm mới trong cộng đồng. Tuy nhiên, cấp ủy, chính quyền các địa phương vẫn luôn tập trung tuyên truyền đến người dân, yêu cầu thực hiện nghiêm các biện pháp phòng dịch, không chủ quan, lơ là.
DẤU ẤN NHIỆM KỲ VÀ KHÁT VỌNG VƯƠN LÊN
Giải B, năm 2020
Nhóm tác giả: Thế Phương, Quang Xếp
Thể loại: Phim tài liệu
T |
rong lịch sử dựng nước và giữ nước, Bắc Giang luôn chiếm vị trí địa chiến lược trọng yếu, là phên dậu và là 1 trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long. Vị trí địa chính trị và đặc điểm địa hình khiến cho vùng đất này ngay từ thời bình minh của lịch sử đã phải oằn mình chống chọi với thiên tai, giặc giã, đã sớm hun đúc nên truyền thống đoàn kết cũng như khát vọng vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách của nhân dân Bắc Giang...
(Trích phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
(Khát vọng chiến thắng thiên tai địch họa... Khát vọng độc lập tự do... Giờ đây, khát vọng ấy đã trở thành nền tảng sức mạnh để Bắc Giang khẳng định chính mình, vươn tới đổi mới và phát triển...).
KHÁT VỌNG VƯƠN LÊN
Trong 5 năm qua, bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, kinh tế trong nước những năm cuối nhiệm kỳ gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Bắc Giang hòa mình cùng với dòng chảy của đất nước nên cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi bối cảnh đó. Hơn nữa là tỉnh có nhiều điều kiện khó khăn, xuất phát điểm thấp nên Bắc Giang cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mang tính đặc thù, như: trình độ dân trí thấp, địa hình phức tạp nên có nhiều vùng đặc biệt khó khăn...
Song, Bắc Giang cũng có những thuận lợi là được sự quan tâm định hướng, gợi mở của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các bộ ngành; sự đoàn kết, thống nhất giữa Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh với khát vọng vươn lên mạnh mẽ. Chính những nhân tố này cùng với phương châm chỉ đạo "Đoàn kết - Dân chủ - Cách mạng - Phát triển” đã tạo nên sự năng động, đổi mới, sáng tạo để phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh, thực hiện đạt kết quả toàn diện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra, đưa Bắc Giang trở thành tỉnh phát triển khá toàn diện, năng động với nhiều chỉ tiêu kinh tế tăng trưởng dẫn đầu khu vực trung du, miền núi phía Bắc và cả nước.
PV: Đ/c Dương Văn Thái, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh
(Trong bối cảnh có nhiều biến động phức tạp, Bắc Giang có cách làm sáng tạo và thể hiện quyết tâm chính trị như thế nào để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa 18?).
LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO ĐƯA NGHỊ QUYẾT VÀO CUỘC SỐNG
Xác định phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, nhiệm kỳ qua Bắc Giang đã rất chú trọng tới công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhân tố chủ chốt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết. Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết được triển khai bài bản, sâu rộng. Đặc biệt coi trọng năm bắt dư luận cán bộ, đảng viên và nhân dân để có những nghị quyết chuyên đề chỉ đạo phù hợp với từng nhiệm vụ, từng thời điểm.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ tỉnh đã kết nạp được trên 1,1 vạn đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong toàn đảng bộ lên gần 8,7 vạn đảng viên. Song song với đó, công tác rà soát, sàng lọc đảng viên được tăng cường thực hiện, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tiêu chuẩn. Chủ trương sắp xếp, tinh giản bộ máy các cơ quan, đơn vị được thực hiện nghiêm túc. Tổ chức bộ máy chính quyền các cấp từng bước được sắp xếp tinh gọn, hỉệu quả. Đã sắp xếp, sáp nhập 40 xã để thành lập 19 xã, thị trấn (giảm 21 xã); sáp nhập 679 thôn, tổ dân phố để thành lập 362 thôn, tổ dân phố mới; sắp xếp lại 1.155 đơn vị sự nghiệp công lập; tinh giản 1. 452 công chức, viên chức nhà nước và giảm 1.206 cán bộ không chuyên trách ở cơ sở.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII được triến khai thực hiện kịp thời nghiêm túc. Qua đó đã góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoải về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với các cấp ủy đảng, chính quyền. Chính những điều này đã tập hợp, đoàn kết được toàn dân làm nên sức mạnh tập thể để cùng vươn tới những thành quả to lớn.
MỘT SỐ KẾT QUẢ NỔI BẬT
Trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GRDP) bình quân trên địa bàn đạt 14, 6%/năm, thuộc nhóm các tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao nhất cả nước, vượt xa mục tiêu Đại hội. Quy mô GRDP năm 2020 ước đạt trên 128 nghìn tỷ đồng, đứng thứ 16/63 tỉnh, thành cả nuớc. GRDP bình quân đầu người đạt 3.000 USD/người/năm, bằng bình quân chung cả nước, đạt mục tiêu Đại hội. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: công nghiệp xây dựng chiếm 58,9%, tăng 15 ,3%; dịch vụ chiếm 25,9%, giảm 3, 7%; nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,2.
Một điều rất dễ nhận thấy trên địa bàn tỉnh là sự năng động của các khu, cụm công nghiệp. Lĩnh vực công nghiệp ghi nhận những bứt phá mạnh mẽ, trở thành động lực chính cho tăng trưởng kinh tế, cho dù những năm cuối nhiệm kỳ gặp không ít khó khăn. Phát triến doanh nghiệp trên địa bàn đạt kểt quả tích cực, bình quân môi năm thành lập mới trên 1.000 doanh nghỉệp, lũy kể đến nay toàn tỉnh có trên 10.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập. Giá trị sản xuât công nghiệp tăng bình quân 27%/năm, vượt xa mục tiêu Đại hội. Hiện tại, toàn tỉnh có 05 khu công nghiệp và 30 cụm công nghiệp, cơ bản đã lẫp đầy diện tích. Quy mô giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2020 ước đạt trên 260 nghìn tỷ đồng, trong đó khu vực FDI chiếm 86,1%, tăng 18,2% so với năm 2015. Có được kết quả này là do Tỉnh ủy đã ban hành một nghị quyết chuyên đề để tập trung lãnh đạo cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tong đó tập trung cải cách hành chính, kịp thời tháo gỡ thủ tục gây cản trở, vướng mắc cho nhà đầu tư. Nhờ vậy, Bắc Giang được đánh giá là một trong những địa phương có sức hấp dẫn về thu hút đầu tư. Kết quả thu hút đầu tư trong nhiệm kỳ cao nhất từ trước đến nay, tổng số dự án thu hút đàu tư còn hiệu lực đã tăng 1672 dự án, gấp 2 lần so với năm 2015, với tổng số vốn đăng ký 6,7 tỷ USD.
PV: Chủ DN FDI nhận định về môi trường đầu tư ở Bắc Giang?
PV: Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư: Đã làm gì để tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhất?
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã góp phần quan trọng cho thu ngân sách đạt kết quả ấn tượng. Tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hằng năm 18,3%, năm 2020 đạt trên 12.000 tỷ đồng, gấp 2,3 lần mục tiêu Đại hội. Trong đó, tỷ trọng các khoản thu mang tính bền vững từ doanh nghỉệp ngày càng tăng. Nhờ đó, tỉnh càng có điều kiện tập trung ưu tiên cho đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu câu phát triển của tỉnh. Nếu công nghiệp là động lực cho phát triển kinh tế của tỉnh thì nông nghiệp giữ vai trò trụ đỡ nền kinh tế. Nhiệm kỳ qua, lĩnh vực này tiếp tục phát triển toàn diện. Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đất sản xuất đạt 110 triệu đồng, đạt mục tiêu Đại hội. Nhưng đó chưa phải là thành quả lớn nhất, cái mang tính bền vững hơn, triển vọng hơn đó là nông nghiệp Bắc Giang đã và đang chuyển mình theo hướng chuyên canh ứng dụng công nghệ cao. Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được 766 mô hình sản xuât ứng dụng công nghệ cao. Từ đó cho ra 56 sản phẩm nông sản chủ 1ực, đặc trưng và 40 sản phẩm đã được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Trong nhiệm kỳ, ngành nông nghiệp gặp rất nhiều trở ngại, đặc biệt là chăn nuôi. Dịch tả lợn châu Phi đã khiến cho ngành chăn nuôi giảm sút mạnh, gây thiệt hại lớn cho nhân dân. Cùng với đó, dù ảnh hưởng bởi dịch bệnh nhưng chăn nuôi vẫn phát triển đa dạng cả chăn nuôi gia súc, gia cẩm. Tổng đàn lợn dự kiến hết năm 2020 đạt 1 triệu con, đứng thứ 4 toàn quốc, đàn gà đứng thứ 3 toàn quốc. Trồng rừng kinh tế phát triển mạnh, nhiều hộ đã làm giàu từ kinh tê rừng....
Toàn cảnh nông thôn Bắc Giang đang thay đổi từng ngày. Từ vùng cao cho đến miền xuôi, tất cả đều chuyển mình mạnh mẽ. Sự thay đổi tổng thể ở nông thôn đến từ chương trình xây dựng NTM song hành với khát vọng của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân nhằm nâng cao chất lượng sống vùng nông thôn, xây dựng những miền quê đáng sống.
Nhiệm kỳ này đánh dấu một bước nhảy vọt trong xây dựng NTM ở Bắc Giang, đứng đầu vùng trung du và miền núi phía Bắc với 3 huyện về đích NTM. Dự kiến đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 124 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 67,4% tổng số xã trong tỉnh, vượt xa mục tiêuĐại hội.
PV: cán bộ lão thành, đoàn viên nhận định về những đổi mới của quê hương trong nhiệm kỳ qua
Thành quả này có được nhờ những chính sách ý Đảng lòng dân. Chỉ riêng Nghị quyết 07 và 06 của HĐND tỉnh về hỗ trợ xây dựng đường giao thông đã cho thấy điều đó. Nghị quyết đã tập hợp được sự đoàn kết chung vai gánh vác trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn. Chỉ trong hơn 02 năm toàn tỉnh đa bê tông hóa theo tiêu chuẩn và quy chuẩn hơn 4. 200 km.
PV: Bà con dân tộc thiểu số: Trách nhiệm trong việc tham gia đóng góp xây dựng đường, niềm vui khi nông thôn đổi thay?
PV: Ông Lại Thanh Sơn, PCT TT UBND tỉnh: Những quyết liệt trong công tác chỉ đạo về lĩnh vực môi trường của UBND tỉnh?
Nếu công, nông nghiệp là những gam màu tươi sáng thì giáo dục đào tạo Bắc Giang càng tô điểm rực rỡ hơn cho bức tranh đó. Hệ thống cơ sở vật chất truờng, 1ớp học và các trang thiết bị phục vụ dạy và học được quan tâm đầu tư. Năm 2020, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 92,4%, tăng 8, 4% so với năm 2015, tỷ lệ trường đạt chuẩn quôc gia đạt 93,2%, đạt mục tiêu Đại hội. Mạng lưới trường, lớp học các cấp và hệ thống các trung tâm giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề, cơ sở đào tạo nghề được rà soát, sắp xếp lại bảo đảm phù hợp với thực tế và nâng cao hiệu quả hoạt động. Chất lượng giáo dục toàn diện và kết quả thi học sinh giỏi quốc gia luôn duy trì trong nhóm 12 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước. Chất lượng giáo dục tăng lên làm xuất hiện nhiều nhân tài ra sức xây dựng quê hương trên mọi miền tổ quốc, làm rạng ranh truyền thống hiếu học, khoa bảng của Bắc Gaing. Với sự phát triển mạnh mẽ của công, nông ngiệp, giáo dục Bắc Giang đã đáp ứng yêu cầu lao động chất lượng cao của các doanh nghiệp, HTX trên địa bàn.
Cùng với giáo dục, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế đạt 100%; tỷ lệ người dân có thẻ bảo hiểm y tế đạt 99%, tăng 25% so với năm 2015, vượt mục tiêu Đại hội. Công tảc y tế dự phòng và phòng, chống dịch bệnh, nhất là công tác phòng, chống dịch Covid 19 được thực hiện hiệu quả. Đại dịch covid-19 là một thử thách mang đến rất nhiều khó khăn, khó khăn này không chỉ thử thách sự đáp ứng của hệ thống y tế cộng đồng Bắc Giang mà cao hơn nó thử thách khát vọng vươn lên của Bắc Giang.
Khi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản có dịch, Bắc Giang là tỉnh tiểm ẩn rất nhiều nguy cơ bởi có lao lao động đang làm việc ở nước bạn và nhiều lao động, chuyên gia nước bạn làm việc tại Bắc Giang. Trong khi đó các tỉnh, thành xung quanh xuất hiện dịch. Trước bối cảnh này, Bắc Giang đã cho thấy sự năng động, quyết liệt của chính quyền và niềm tin của nhân dân vào chính quyền để cùng bảo vệ sức khỏe nhân dân... Lãnh đạo tỉnh sát sao chỉ đạo tại cơ sở... Hệ thống y tế vào cuộc mạnh mẽ... Người dân sẵn sàng hy sinh những lợi ích cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành các biện pháp giãn cách xã hội... Những gian hàng 0 đồng... Những quầy hàng phát khẩu trang, nước sát khuẩn miễn phí... Tất cả đã cho thấy sức vươn của Bắc Giang, nhờ đó tỉnh không chỉ phòng chống dịch hiệu quả mà còn đầy tính nhân văn...
PV: Người dân (Niềm tin phòng chống dịch vào chính quyền? Qua đó thấy sự đoàn kết của toàn dân vượt qua đại dịch như thế nào?)
Xác định thực trạng phát triển kinh tế thường ảnh hưởng tới môi trường và trên thực tế nhiều khu vực ở các địa phương, rác thải vứt tràn lan gây ô nhiễm rất nghiêm trọng. Do vậy, Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 17 về việc huy động toàn dân tập trung thu gom, xử lý triệt để rác thải ra môi trường. Chỉ thị yêu cầu các cấp uỷ đảng tập trung lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị ở địa phương, nhằm huy động sức mạnh toàn dân triển khai tập trung xử lý triệt để rác thải ra môi trường. Trong đó, thu gom triệt để rác thải sinh hoạt ở các địa phương vào khu vực tập trung tại các điểm do địa phương xác định để đốt, không chôn lấp. Việc chuẩn bị đầu tư xây dựng nhà máy, lò đốt theo quy mô, công suất, công nghệ đốt do các địa phương tự quyết định nhưng phải bảo đảm phù hợp và hiệu quả.
Văn hóa, thể thao, thông tin, truyền thông tiểp tục phát triển phong phú, đa dạng. Hạ tầng các thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa rèn luyện sức khỏe của người dân được quan tâm đâu tư. Công tác bào tồn và phát huy giá trị di sản van hóa được chú trọng. Du lịch đã được đầu tư có trọng tâm, trong điểm để phát triển, tiêu biểu như Khu du lịch tâm kinh sinh thái Tây yên Tử, Suối Mỡ, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà.
Đô thị phát triển nhanh, diện mạo dô thị thay đổi rõ nét, ngày cảng khang trang, hiện đại hơn. Trong nhiệm kỳ, tinh dã triển khai thực hiện 36 dự an khu đô thị, khu dân cư với tổng mức đầu tư khoảng 8.000 tỷ đổng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt trên 230 nghìn tỷ đồng. Đã tập trung ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông di trước một bước để tạo đỉều kiện thuận lợi cho phát tríên các lĩnh vực, như: Đường cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn, đường vành đai IV Hà Nội, ĐT293 và các tuyến nhánh vào Tây Yên Tử, càu Đồng Sơn và đường dẫn lên cầu.
Nhờ những chuyển biến tích cực ở tất cả các lĩnh vực nên an sinh xã hội được nâng cao, đời sống nhân dân có sự thay đổi ro rệt và thực chất, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, đến nay chỉ còn 3,5%, giảm 10, 43% so với năm 2015, bình quân quân giảm trên 2%/năm, vượt mục tiêu Đại hội. An ninh, quốc phòng ổn định và giữ vững.
(Trích phát biểu của Thủ tướng Chính phủ về những điểm nổi bật của Bắc Giang)
PV: Bí thư Tỉnh ủy (Đâu là nhân tố quyết định những thành quả tỉnh Bắc Giang đạt được trong nhiệm kỳ vừa qua?).
HẠN CHẾ, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP
Nhiệm kỳ qua cho thấy những đột phát ở từng lĩnh vực, sự khởi sắc to lớn của tỉnh, vị thể tỉnh Băc Giang ngày càng nâng cao. Song, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận kinh tế tăng truởng cao, nhưng chất lượng tăng trưởng cải thiện chậm; năng suất lao động còn thấp. Sản xuất công nghiệp phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI. Chất lượng các dự an thu hút đầu tư chưa cao. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã còn hạn chế. Sản xuất nông nghiệp đa phần quy mô nhỏ. Chất lượng một số hoạt động gỉáo dục, y tế, văn hóa xa hội cải thiện còn chậm. Những hạn chế này cùng bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi tỉnh phải sáng suốt cho những định hướng 5 năm tiếp theo.
Mục tiêu chung Bắc Giang sẽ phát triển toàn diện các ngành kỉnh tế: Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, trong dó công nghiệp là động lực chủ yếu, nông nghiệp làm nên tảng bảo đảm, dịch vụ làm điều kiện thúc đẩy. Phát triển đồng bộ và hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội và môi trường; đồng bộ và hài hòa giữa thành thị với nông thôn, giữa đống bằng và miền núi. Phát triển vì mục tiêu con người, lấy chỉ số phát triển con người là thước đo đối với các chí số phát triển địa phương.
Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025:
-Tốc độ tăng truờng kinh tế (GRDP) bình quân hằng năm 15%/ năm.
- Cơ cấu kinh tê: Công nghiệp xây dựng 69 3%; Dịch vụ 21 7,%; Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 9%.
- Thu nhập bình quân đầu người (GRDP/người/năm): 5.500 - 6. 000 USD.
- Thu ngân sách trên địa bàn năm 2025: 15 000 tỷ đồng
- Tỷ lệ người dân có thẻ bảo hiểm y tế đạt trên 99% dân số.
- Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh còn 1,0%; trong dó các xa đặc biệt khó khăn còn 12, 6%.
- Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 đạt 95%, mức độ 2 đạt 21,4%.
- Tỷ lệ chất thải răn thu gom được xử lý hợp vệ sỉnh đạt 85% (thành thị 96%, nông thôn 75%); tỷ lệ khu, cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thài tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 100%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%.
- Tỷ lệ dân số đô thị đạt 32, 4%.
- Tỷ lệ xa đạt chuẩn nông thôn mới đạt 84,8%, có 06 huyện đạt chuẩn nông thôn mới
PV: Bí thư Tỉnh ủy (Để đạt được các mục tiêu, giải pháp chủ yếu là gì? Quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh ra sao?).
Một chặng đường hội tụ đủ những thế mạnh của Bắc Giang gồm sức mạnh đoàn kết, khả năng sáng tạo để phát huy những lợi thế gặt hái những thành quả to lớn. Chặng đường 5 năm qua đã khép lại đầy tự hào để mở ra một giai đoạn mới. Ở giai đoạn tiếp theo với những bối cảnh phức tạp cùng những hạn chế tồn tại, khó khăn, thử thách với cán bộ, đảng viên và nhân dân Bắc Giang là vô cùng to lớn. Song với thế và lực mới, với sức mạnh đoàn kết cùng khát vọng vươn lên manh mẽ, chắc chắn chặng đường mới sẽ mở ra những cơ hội mới và thành quả to lớn mới. Qua đó không chỉ khẳng định vị thế một tỉnh đang phát triển năng động mà còn vì mục tiêu cao cả hơn, vì lợi ích của nhân dân.
CHẤN CHỈNH KỶ LUẬT, KỶ CƯƠNG HÀNH CHÍNH
Giải B, năm 2020
Nhóm tác giả: Đức Đạt, Hoài Nam
Thể loại: Phóng sự Thu thanh
H |
oài Nam: Có lẽ khi nghe những âm thanh vừa rồi thì Quý vị và các bạn cũng đã phần nào hình dung được vấn đề mà Câu chuyện Thời sự hôm nay sẽ đề cập tới phải không ạ? Vâng, thưa Quý vị và các bạn! Trong thời gian qua, tại nhiều cơ quan trên địa bàn tỉnh, việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, thực hiện quy chế văn hóa công sở và đặc biệt là việc chấp hành thời gian, giờ giấc làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn chưa nghiêm túc. Thậm chí ở một số nơi còn diễn ra tình trạng cán bộ sử dụng rượu bia trong ngày làm việc.
Thu Phượng: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Cán bộ là gốc của mọi công việc”, "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu”. Thực tế này cho thấy, cần phải tăng cường, chấn chỉnh việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính khi thực thi công vụ, nhiệm vụ đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Và đây cũng chính là nội dung chúng tôi sẽ bàn tới trong chương trình ngày hôm nay. Xin được giới thiệu tới Quý vị và các bạn tôi – BTV Thu Phượng…
Hoài Nam: Và tôi, BTV Hoài Nam… xin kính chào Quý vị thính giả!
Thu Phượng: Và chúng tôi cũng xin được trân trọng giới thiệu tới QVCB ông Khuông Văn Thông, Phó Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang – Người đã trực tiếp tham gia rất nhiều cuộc kiểm tra công vụ trên địa bàn tỉnh sẽ là khách mời đồng hành, cùng chia sẻ với chúng ta những vấn đề đáng quan tâm trong thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính thực thi công vụ.
Ông Khuông Văn Thông: Vâng, xin kính chào quý vị thính giả của đài PTTH Bắc Giang!
Hoài Nam: Vâng, xin được cảm ơn ông Khuông Văn Thông đã dành thời gian tham gia chương trình của chúng tôi! Và như thường lệ xin được cung cấp cho Quý vị thính giả địa chỉ trang thông tin điện tử của Đài PTTH Bắc Giang để quý vị có thể gửi những thông tin, phản ánh về vấn đề mình quan tâm tới chương trình qua địa chỉ mail của thoisubgtv@gmail.com; hoặc qua ứng dụng zalo, nhắn tin tới số điện thoại di động 0912.241.893.
Thu Phượng: Xin được trở lại câu chuyện của những người dân đang bức xúc vì phải chờ đợi cán bộ đến giải quyết thủ tục hành chính mà chúng tôi vừa nhắc tới ở phần đầu của chương trình. Họ đang phải chờ đợi ở bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả mà chúng ta vẫn gọi tắt là bộ phận Một cửa của huyện Lục Nam. PV Huyền Trang có mặt tại đây sẽ thông tin cụ thể hơn về sự việc này.
PS: Bộ phận một cửa Lục Nam thiếu cán bộ trong giờ hành chính
Huyền Trang: Thưa Quý vị và các bạn! Theo quy định, giờ làm việc mùa đông của các cơ quan nhà nước sẽ bắt đầu từ 7g30 phút sáng đến 12h00; buổi chiều từ 13h đến 16h30. Và hiện nay đã là 14h15 phút chiều, tức là đã quá 1 tiếng 15 phút so với quy định, tuy nhiên, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của huyện Lục Nam vẫn không đủ cán bộ, chỉ có 3 cán bộ trong tổng số 8 cán bộ trực, vắng tới 5 người. Lý giải việc công chức phụ trách 1 cửa vắng mặt trong giờ hành chính, một công chức lĩnh vực Tài Chính – kế hoạch,Bộ phận 1 cửa huyện Lục Nam cho biết: Băng.
Vâng và hiện nay là 15h chiều, tức là phải mất thêm gần một tiếng chờ đợi nữa, sau khi có sự xuất hiện của PVTS, thì số lượng công chức của bộ phận Một cửa huyện Lục Nam mới tăng lên 5 trên tổng số 8 cán bộ. Còn công chức lĩnh vực đăng ký đất đai, thuế, lao động thương binh và xã hội vẫn chưa có mặt. Cũng cần nói thêm rằng, đây là những lĩnh vực mà nhu cầu giải quyết thủ tục hành chính của người dân thường rất nhiều. Nhiều người do đã chờ đợi quá lâu đành phải ra về.
Hoài Nam: Vâng qua phóng sự trên cho thấy, cũng giống như những ngày giáp Tết, tình trạng cán bộ đi muộn, vắng mặt trong giờ hành chính dịp sau Tết cũng diễn ra khá là nhiều phải không ông Khuông Văn Thông, Phó Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng, trước tiên tôi phải nói rằng, thời gian qua, việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, thực hiện quy chế văn hóa công sở, giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh nhìn chung được thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên ở một số nơi vẫn còn tình trạng mà cán bộ, công chức, viên chức chưa chấp hành tốt thời gian, giờ làm việc theo quy định, đặc biệt là dịp trước và sau Tết. Qua kiểm tra thì chúng tôi đã phát hiện ra nhiều cán bộ của các đơn vị vi phạm như vắng mặt trong giờ hành chính, đi muộn, sử dụng rượu bia trong buổi trưa ngày làm việc. Nơi thực hiện tốt hơn thì cũng vẫn vi phạm một số lỗi nhẹ hơn như cán bộ không đeo thẻ, không gắn biển tên cán bộ công chức, có xã còn chưa ban hành quy chế hoạt động bộ phận một cửa theo Nghị định 61…
Hoài Nam: Vâng xin cảm ơn ông! Mặc dù đã có công văn chỉ đạo của Tỉnh ủy, tuy nhiên thời gia qua, việc cán bộ uống rượu bia trong buổi trưa ngày làm việc còn diễn ra ở nhiều nơi và là một vấn đề rất đáng quan tâm. Và sau đây là một trường hợp như thế.
Công văn số 1937 của Tỉnh ủy Bắc Giang nghiêm cấm cán bộ, đảng viên không uống rượu, bia trong giờ hành chính, buổi trưa các ngày làm việc, ngày trực và trước khi điều khiển phương tiện cơ giới tham gia giao thông. Tuy nhiên, tại thời điểm kiểm tra (14 giờ 30 phút ngày 20-2, tại bộ phận một cửa xã Quế Nham, huyện Tân Yên, Tổ kiểm tra công vụ của Sở Nội vụ phát hiện công chức Tư pháp - Hộ tịch Nguyễn Quyết Thắng mặc trang phục áo phông, đi dép lê và có biểu hiện mặt đỏ (nghi là sử dụng rượu bia).Trong quá trình xử lý thủ tục chứng thực sao y bản chính cho công dân, ông Thắng yêu cầu công dân cầm bản sao sang xin chữ ký của lãnh đạo UBND xã là chưa đúng quy định. Tổ kiểm tra đã lập biên bản, tuy nhiên, ông Thắng đã không hợp tác: Băng.
Được biết, sáng cùng ngày, Tổ kiểm tra do UBND huyện Tân Yên thành lập cũng đã kiểm tra thực tế tại xã Quế Nham và lập biên bản việc ông Nguyễn Quyết Thắng, có biểu hiện sử dụng rượu, bia trong giờ làm việc.
Hoài Nam: Vâng được biết là ông Nguyễn Quyết Thắng công chức Tư pháp - Hộ tịch của xã Quế Nham còn là một đảng viên. Thực sự đó là những hình ảnh rất đáng buồn về một công chức cấp xã phải không ạ? Vậy còn ông Thông, ông có suy nghĩ như thế nào ạ?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng thưa anh Hoài Nam, tôi cũng xin được thông tin thêm là không chỉ có công chức vi phạm đâu mà trong đợt kiểm tra vừa rồi chúng tôi còn phát hiện một lãnh đạo xã tại huyện Lạng Giang, rồi Chỉ huy trưởng Quân sự, chỉ huy Phó Quân sự một xã của huyện Tân Yên cũng uống rượu buổi trưa. Tại huyện Sơn Động thì cán bộ của phòng Giáo dục Đào tạo huyện, thậm chí là đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện cũng đã uống rượu buổi trưa ngày làm việc. Có thể nói đây là những vi phạm rất nghiêm trọng về chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính mà cán bộ, công chức không được phép mắc phải. Tất cả những trường hợp này chúng tôi đã lập biên bản, đề nghị UBND huyện và UBND tỉnh xử lý nghiêm theo quy định.
Hoài Nam: Vâng, thưa Quý vị và các bạn, có thể thấy, việc thực hiện giờ giấc, kỷ cương công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn chưa nghiêm túc làm ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả công việc, tới kết quả thực hiện nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, làm lãng phí thời gian của tổ chức, công dân, làm giảm hiệu quả lao động, sản xuất, kinh doanh, sự phát triển của toàn xã hội.
Thu Phượng: Vâng không chỉ có vậy,là những người thường xuyên tiếp xúc, giao dịch với công dân, thì việc những cán bộ, công chức, viên chức vắng mặt, đi muộn, uống rượu bia hay tác phong chưa chuẩn mực đã trực tiếp làm ảnh hưởng tới hình ảnh, niềm tin của người dân đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước. Về điều này, ông Khuông Văn Thông có ý kiến như thế nào ạ?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng đúng vậy thưa anh chị, là người trực tiếp tham gia Tổ kiểm tra của Sở Nội vụ qua quá trình kiểm tra tôi thấy rằng những cán bộ, công chức, viên chức vi phạm không hẳn là những người không có năng lực chuyên môn, về trình độ, bằng cấp họ đều đạt chuẩn theo quy định, nhưng việc chấp hành giờ giấc, tác phong, lề lối làm việc, ý thức, trách nhiệm với công việc chưa cao nên kết quả giải quyết công việc còn hạn chế. Các anh chị hình dung là một người dù có giỏi về chuyên môn nhưng nếu thường xuyên vắng mặt, thái độ giao tiếp với nhân dân không đúng chuẩn mực hoặc vi phạm uống rượu buổi trưa… thì rõ ràng hiệu quả làm việc sẽ không cao, làm ảnh hưởng đến hình ảnh tốt đẹp của người cán bộ, công chức, viên chức trước quần chúng nhân dân và doanh nghiệp.
Hoài Nam: Vâng, không chỉ có vậy thì còn làm ảnh hưởng tới cả những đồng nghiệp khác, công việc chung nữa phải không ạ thưa ông?
Ông Khuông Văn Thông: Việc này thì rất là rõ ràng bởi như anh chị biết đấy, hiện nay giải quyết thủ tục hành chính chủ yếu là liên thông giữa các cấp, các ngành, các bộ phận, vậy trong quá trình giải quyết thủ tuc hành chính nếu thiếu một khâu thì rõ ràng không thể hoàn thành được.
Hoài Nam: Thực tế là vậy, tuy nhiên lại có rất nhiều lý do được lãnh đạo các xã, thị trấn đưa ra khi cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị mình vi phạm, xin được mời ông Thông cùng Quý vị thính giả cùng nghe một số ý kiến của các lãnh đạo xã mà PVTS đã ghi nhận được:
Thu Phượng: Vâng, đó là ý kiến ông Hoàng Văn Trường, PCT UBND xã Tân Hiệp, huyện Yên Thế. Ông Bùi Thế Vịnh - Chủ tịch UBND Thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang.Thưa ông Thông, ông có ý kiến như thế nào về việc lãnh đạo xã Đồng Tâm, huyện Yên Thế giải thích là do cán bộ phải xuống thôn để giải quyết công việc nên mới vắng mặt?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng thực ra chúng ta đều thấy đó chỉ là những giải thích biện minh cho việc vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý của mình. Bởi theo quy định Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả bắt buộc phải có công chức trực, giải quyết thủ tục hành chính trong giờ làm việc. Những công việc khác phải bố trí cho phù hợp, tìm thời gian hoặc người trực thay để đi giải quyết chứ không phải là bỏ vị trí như vậy.
Thu Phượng: Dạ vâng thưa ông, vậy còn ông Chủ tịch UBND thị trấn Vôi thì thậm chí tôi thấy còn tỏ ra khá là thông cảm cho cô công chức Văn hóa- Xã hộiđi muộn tới 1 tiếng đồng hồ là do cô này đang có bầu, sắp đến ngày sinh. Ông nghĩ như thế nào ạ?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng như tôi vừa nói, đó chỉ là lý do bao biện cho cán bộ cấp dưới vì nếu không đủ sức khỏe làm việc có thể xin nghỉ phép, nghỉ ốm, nghỉ thai sản trước thời gian chứ không được phép tự ý đi làm muộn hay về sớm, còn đã làm việc thì phải đảm bảo những điều kiện về sức khỏe, chấp hành nghiêm nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị chứ không thể bảo là hôm nay tôi mệt nên tôi đi muộn, về sớm.
Thu Phượng: Dạ vâng, nói cách khác thì đây chính là sự bao che cho cán bộ cấp dưới phải không thưa ông? Và với kinh nghiệm theo dõi lĩnh vực nội vụ trong nhiều năm qua thì tôi thấy rằng đây cũng chính là một nguyên nhân khiến cho việc cán bộ, công chức, viên chức còn chưa tuân thủ nghiêm giờ giấc, thời gian làm việc. Rõ ràng ở đây có cả trách nhiệm của người đứng đầu phải không thưa ông?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng thưa chị, chỉ thị 01 của Chủ tịch UBND tỉnh nêu rất rõ ở đây là trách nhiệm người đứng đầu rồi vì là Lãnh đạo, trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Bởi vậy mà người đứng đầu cũng phải chịu trách nhiệm đối với việc để xảy ra tình trạng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc thẩm quyền quản lý của mình vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính do chưa làm tốt công tác kiểm tra đột xuất, chấn chỉnh việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc quyền quản lý của mình.
Hoài Nam: Đúng như ông Thông vừa nói, thực tế cho thấy, nơi nào người đứng đầu quan tâm, đôn đốc, kiểm tra, nhắc nhở thì ở nơi ấy, đội ngũ cán bộ, công chức, vien chức làm việc nền nếp, hiệu quả. Sau đây xin được mời ông và Quý vị thính giả cùng nghe ghi nhận sau của phóng viên Dương Huyền tại huyện Hiệp Hòa.
(PS Hiệp Hòa nêu cao trách nhiệm người đứng đầu thực thi công vụ)
Xã Mai Trung, huyện Hiệp Hòa là một trong những điểm sáng về thực hiện tốt lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, công chức. Tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, không khí làm việc ở đây luôn nghiêm túc, nền nếp. Đặc biệt, xã Mai Trung đã bố trí lãnh đạo xã trực tiếp làm việc tại bộ phận một cửa để giải quyết các thủ tục hành chính. Đây là nhận xét của một số người dân: Băng.
Ông NGÔ VĂN SỰ, Phó Chủ tịch UBND xã Mai Trung chia sẻ thêm về cách làm của xã: Băng.
Tại xã Xuân Cẩm, một trong những kinh nghiệm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức mà xã đã thực hiện đó là thường xuyên lắng nghe ý kiến, phản ánh của người dân để có hình thức chấn chỉnh, xử lý đối với những cán bộ, công chức vi phạm kỷ cương công vụ. Ông NGÔ KHẮC TÌNH, Chủ tịch UBND xã Xuân Cẩm khẳng định: Băng.
Với mục tiêu lấy người dân và DN làm trọng tâm để phục vụ, thời gian qua, huyện Hiệp Hòa đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đồng bộ, có đủ trình độ, phẩm chất, đạo đức nhằm tạo bước chuyển mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm phục vụ người dân. Ông Hoàng Công Bộ, Chủ tịch UBND huyện Hiệp Hòa cho biết: Để nâng cao chất lượng thực thi công vụ, huyện đặc biệt chú trọng tới khâu kiểm tra, đôn đốc cán bộ: Băng.
Với những cách làm như trên, huyện Hiệp Hòa đã tạo nên những bước chuyển tích cực về chất lượng nền công vụ phục vụ của huyện nói chung và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng, nhất là về ý thức chấp hành và thực thi trách nhiệm công vụ, qua đó tạo sự hài lòng cho người dân.
Hoài Nam: Vâng, đó là ghi nhận của PVTS, còn ông Thông đánh giá như thế nào về cách làm cũng như hiệu quả thực thi công vụ tại địa phương này ạ?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng đúng như phóng sự phản ánh, trong số những nơi mà chúng tôi đi kiểm tra thì Hiệp Hòa là địa phương thực hiện khá là tốt nề nếp, kỷ cương công vụ. Bên cạnh việc thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở thì việc bố trí lãnh đạo xã trực luôn ở bộ phận một cửa tôi cho là cách làm rất tốt, rất hiệu quả. Vì khi có mặt của lãnh đạo xã như vậy thì đã nâng cao trách nhiệm là người đứng đầu của họ rồi, hơn nữa cán bộ một cửa khi thấy lãnh đạo có mặt ở đây thì không thể lơ là công việc được, người dân thì cũng rất thuận tiện nếu có ý kiến gì có thể trực tiếp phản ánh ngay.
Thu Phượng: Ông có cho rằng đây là một kinh nghiệm tốt để các địa phương khác có thể học tập làm theo không ạ?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng đúng thế thưa chị. Nói chung ở đâu người Lãnh đạo, người đứng đầu thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, nhắc nhở thì ở đó, kỷ cương, nền nếp công vụ rất tốt. Những cán bộ, công chức, viên chức vi phạm cần phải có hình thức xử lý ngay, xử lý nghiêm khắc để làm gương. Còn nếu như chúng ta còn tư tưởng cấp dưới vi phạm, cấp trên thông cảm hay bao biện thì thực sự là rất khó đi vào nề nếp.
Hoài Nam: Thưa… Toàn tỉnh Bắc Giang hiện có hơn 41 nghìn cán bộ, công chức, viên chức chức; trong đó, gần 5 nghìn cán bộ, công chức đang làm việc tại UBND các xã, phường, thị trấn. Trong thời gian qua, vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ công chức này luôn được Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm.
Thu Phượng: Bên cạnh nhiều cơ chế tạo điều kiện để đội ngũ công chức, viên chức học tập, bồi dưỡng, nâng chuẩn trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tỉnh còn chỉ đạo rất quyết liệt việc thực hiện nghiêm tác phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Về nội dung này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi ngắn với ông Dương Văn Thái, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang. Sau đây là nội dung cuộc trao đổi:
Hoài Nam: Vâng, như Chủ tịch UBND tỉnh Dương Văn Thái đã khẳng định, tinh thần chỉ đạo của tỉnh đối với vấn đề này là rất kiên quyết. Cụ thể, ngày 29/7/2019, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Công văn số 1937 yêu cầu người đứng đầu các cấp, các ngành có trách nhiệm giáo dục, nhắc nhở, yêu cầu cán bộ, đảng viên thuộc quyền quản lý thực hiện nghiêm quy định về thời gian, giờ làm việc hành chính, quy định về không uống rượu, bia. Nghiêm cấm cán bộ, đảng viên la cà hàng quán trong giờ làm việc. Xử lý nghiêm và ngay lập tức khi phát hiện các trường hợp vi phạm.
Thu Phượng: Còn mới đây nhất, ngày 8/1/2020, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang cũng đã ban hành Chỉ thị số 01 về việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính khi thi hành công vụ. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu đẩy mạnh công tác phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong thực thi công vụ; khắc phục ngay hiện tượng đùn đẩy né tránh trách nhiệm, chậm thời gian, tiến độ giải quyết công việc. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm nếu để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị mình vì phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính. Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động không sử dụng thời giờ làm việc để làm việc riêng; nghiêm cấm việc sử dụng rượu, bia, đồ uống, đồ có cồn trong giờ làm việc, giờ nghỉ trưa của ngày làm việc, ngày trực và trước khi điều khiển phương tiện cơ giới tham gia giao thông. Ngoài ra, chỉ thị cũng nêu rõ việc tăng cường kiểm tra đột xuất việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính đối cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Hoài Nam: Vâng xin được hỏi ông Khuông Văn Thông là kể từ khi có chỉ thị 01 của Chủ tịch UBND tỉnh thì tổ kiểm tra của Sở Nội vụ đã tiến hành kiểm tra được bao nhiêu đơn vị ạ?
Ông Khuông Văn Thông: Vâng, ngay sau khi có Chỉ thị 01 thì với vai trò là cơ quan chủ quản, trực tiếp quản lý lĩnh vực này, được Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh giao trách nhiệm chúng tôi đã thành lập tổ kiểm tra tiến hành kiểm tra đột xuất tại 03 đơn vị trực thuộc sở, ngành; 06 phòng, Bộ phận TN&TKQ của UBND các huyện và 21 UBND xã, phường, thị trấn. Tất cả những cuộc kiểm tra của chúng tôi đều không thông báo trước, mang tính khách quan với mục tiêu là nắm bắt tình hình thực hiện kỷ luật, kỷ cương, chấp hành giờ giấc hành chính trong thực thi công vụ, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức để kịp thời chấn chỉnh và báo cáo Tỉnh ủy, UBND tỉnh theo quy định.
Hoài Nam: Dạ vâng, xin cảm ơn ông Thông. Trên cơ sở kết quả kiểm tra của Sở Nội vụ, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang vừa có văn bản nhắc nhở, phê bình một số cán bộ, công chức, viên chức vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh bị tổ kiểm tra công vụ của Sở nội vụ lập biên bản trong thời gian trước và sau Tết Nguyên Đán Canh Tý năm 2020.
(Đọc trên nền nhạc) Trong văn bản này, Chủ tịch UBDN tỉnh phê bình Chủ tịch UBND các huyện Tân Yên, Lạng Giang, Sơn Động vì để cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý uống rượu buổi trưa các ngày làm việc. Nhắc nhở, rút kinh nghiệm đối với giám đốc Sở NN&PTNT, chủ tịch UBND các huyện Việt Yên, Tân Yên, Lạng Giang, Yên Dũng, Lục Nam, Sơn Động vì để cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý vi phạm thời gian, giờ giấc làm việc và quy chế văn hóa công sở. Đồng thời, chủ tịch UBND tỉnh cũng yêu cầu giám đốc Sở NN&PTNT, Chủ tịch UBND các huyện nghiêm túc rút kinh nghiệm và khắc phục ngay tình trạng nêu trên; xem xét xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị có công chức, viên chức vi phạm và cá nhân cán bộ, công chức, viên chức vi phạm bị Tổ kiểm tra phát hiện, lập biên bản. Kết quả xử lý trách nhiệm, xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm nói trên báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh trước ngày 2/3/2020.
Thu Phượng: Vâng có thể thấy, sự chỉ đạo, tinh thần của tỉnh là rất quyết liệt trong việc chấn chỉnh kỷ cương, nền nếp kỷ luật hành chính khi thực hiện công vụ của đội ngũ cán bộ. Việc xử lý kiên quyết, nghiêm túc như vậy sẽ tạo nên sức răn đe, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong thực thi nhiệm vụ. Với vai trò là cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh, thời gian tới Sở Nội vụ sẽ tiếp tục có những giải pháp gì ạ thưa ông?
Ông Thông trả lời: Tôi nghĩ rằng việc chúng ta nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là cả một quá trình. Vì vậy mà chúng tôi sẽ tham mưu cho Tinh ủy, UBND tỉnh tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch về đội ngũ cán bộ, công chức các xã, phường, thị trấn giai đoạn từ nay đến năm 2030, trong đó sẽ tiếp tục xây dựng những chỉ tiêu, tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển KTXH. Trước mắt chúng tôi sẽ vẫn duy trì đi kiểm tra như thời gian qua để kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính. Về phía người dân chúng tôi cũng mong rằng, mỗi người hãy phát huy tinh thần dân chủ, thẳng thắn góp ý, mạnh dạn báo cho cho cơ quan Quản lý Nhà nước nếu như phát hiện ra những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước. Hiện nay các cấp, các ngành đều có đường dây nóng. Riêng Sở Nội vụ chúng tôi cũng đã thiết lập riêng một đường dây để tiếp nhận thông tin của công dân phản ánh liên quan tới việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính của cán bộ, công chức, viên chức.
Hoài Nam: Vậy ông có thể cung cấp địa chỉ cụ thể cho Quý vị thính giả được không ạ?
Ông Khuông Văn Thông trả lời: trang điện tử của Sở Nội vụ Bắc Giang là snv.bacgiang.gov.vn, số điện thoại đường dây nóng là 0204.3.854.602.
Thu Phượng: Dạ vâng, thưa ông, và thực hiện chỉ đạo của Chủ tịchUBND tỉnh, Đài PT&TH Bắc Giang cũng đã thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận thông tin của tổ chức và công dân phản ánh những bất cập, nhũng nhiễu, tiêu cực của cơ quan hành chính và cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, kỷ luật, kỷ cương hành chính.Số đường dây nóng là: 0204.3.554.550. Xin nhắc được nhắc lại Quý vị có thể điện đến số máy 0204.3.554.550 để thông tin cho chúng tôi những trường hợp cán bộ vi phạm các quy định về thực thi công vụ.
Hoài Nam: Thưa Quý vị thính giả! Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Cán bộ là công bộc của dân. Nhiệm vụ của người cán bộ không gì khác là phải nỗ lực hết mình để phục vụ những yêu cầu chính đáng của người dân, của các tổ chức, giúp cho guồng máy kinh tế xã hội hoạt động trơn tru, hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển của tỉnh, của đất nước.
Thu Phượng: Vâng, để có được điều đó, thì mỗi cán bộ, công chức, viên chức cần phải rèn luyện thường xuyên, từ những điều nhỏ nhất đó là đi làm đúng giờ, không sử dụng rượu bia trong giờ làm việc cũng như là chấp hành tốt các quy định khác về nề nếp, kỷ cương hành chính. Và tới đây thì chúng tôi cũng xin được kết thúc chương trình Vấn đề thời sự hôm nay với chủ đề "Chấn chỉnh luật, kỷ cương hành chính”.
Hoài Nam: Vâng, đó là chương trình tuần này, còn chủ đề của chương trình tuần tới sẽ là gì chị Thu Phượng?
Thu Phượng: Vâng thưa anh, trong tuần tới chủ đề của chương trình sẽ là Hiểu đúng để ứng phó với Covid-19 – một vấn đề nóng đang rất được quan tâm hiện nay. Và hi vọng là Quý vị thính giả sẽ tiếp tục đồng hành cùng chúng tôi bằng cách gửi những thông tin liên quan tới chương trình qua địa chỉ mail của thoisubgtv@gmail.com; hoặc qua ứng dụng zalo, nhắn tin tới số điện thoại di động 0912.241.893. Chương trình do Phòng Thời sự đài PTTH Bắc Giang thực hiện. Chịu trách nhiệm nội dung: Tạ Văn Dương, Nguyễn Giang Nam. Tổ chức sản xuất: Đức Đạt. Biên tập: Hoài Nam, Thu Phượng; Kỹ thuật viên: Mai Thanh, Phương Huệ.
Hoài Nam: Vâng, thay mặt những người làm chương trình, xin được một lần nữa trân trọng cảm ơn ông Khuông Văn Thông, Phó Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang đã tham gia chương trình và đem đến cho chúng tôi rất nhiều ý kiến tâm huyết. Xin chúc Quý vị thính giả có những ngày nghỉ cuối tuần vui vẻ, hạnh phúc bên gia đình! Kính chào và hẹn gặp lại.
LẮNG NGHE, BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA CỬ TRI
Giải B, năm 2020
Nhóm tác giả: Thu Hương, Hữu Trình
Thể loại: Phản ánh
Q |
uốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân nên mọi hoạt động của Quốc hội và mỗi ĐBQH đều được cử tri quan tâm, dõi theo và đặt nhiều kỳ vọng.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, ngoài việc tham gia có hiệu quả công tác lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Đoàn ĐBQH Bắc Giang đã có nhiều đổi mới, với phương châm hướng tới cử tri, hướng tới nhân dân, gần gũi, lắng nghe và nắm bắt những vấn đề bức thiết của nhân dân để giải quyết, bảo vệ. Những việc làm đó đã góp phần làm tăng sự đồng thuận trong dân, tăng niềm tin của cử tri với Quốc hội, để Quốc hội thực sự của dân, do dân và vì dân.
BÀI 1 - ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG ĐỂ GẦN DÂN, SÁT DÂN
Chắt lọc từng ý kiến phát biểu; xem xét thấu đáo mọi đề xuất, kiến nghị; kịp thời thông tin về kết quả giải quyết... là cách mà Đoàn ĐBQH Bắc Giang tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, xử lý đơn thư. Cách làm này đã tạo sự tin tưởng với người dân, giúp Đoàn nghe được nhiều ý kiến để kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tiếp xúc cử tri đi vào thực chất, hiệu quả
Tiếp xúc cử tri, tiếp dân được xem là kênh quan trọng để ĐBQH nắm bắt và cảm nhận rõ hơn tâm tư nguyện vọng, thậm chí cả những bức xúc của nhân dân. Đây là việc làm không mới nhưng làm thế nào để nghe được nhiều nhất ý kiến của cử tri, nhân dân lại là điều không đơn giản.
Đầu nhiệm kỳ, Đoàn ĐBQH Bắc Giang có 8 người, 3 đại biểu Trung ương, 5 đại biểu là người địa phương. Đến giữa nhiệm kỳ, theo điều động của tổ chức, còn 7 đại biểu; trong đó cơ cấu ngược lại, chỉ còn 3 đại biểu của tỉnh, 4 đại biểu Trung ương; chưa kể đa phần đại biểu ứng cử lần đầu, tỷ lệ đại biểu nữ đông (5/7 người).
Với số lượng đại biểu "mỏng”, địa bàn tỉnh Bắc Giang rộng, việc tiếp xúc cử tri có nhiều đổi mới. Nếu như trước đây, mỗi đoàn đi tiếp xúc cử tri gồm ba, bốn người thì nay đa phần mỗi đoàn rút gọn còn hai người. Nếu như trước kia, đại biểu nào ứng cử ở đâu tiếp xúc cử tri ở đó thì nay địa bàn mở rộng; có thể là nơi ở, nơi làm việc của cử tri... Nội dung tiếp xúc cũng phong phú hơn, theo chủ đề, theo vấn đề cử tri quan tâm để có trọng tâm trọng điểm.
Tổng hợp của Văn phòng Đoàn, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đoàn ĐBQH Bắc Giang đã tổ chức tiếp xúc cử tri ở 96 điểm với khoảng 20 nghìn cử tri tham dự. Đã có 1.750 cử tri phát biểu ý kiến, trong đó qua phân loại có 161 ý kiến thuộc thẩm quyền tỉnh giải quyết, 212 ý kiến thuộc thẩm quyền của Trung ương.
Nhìn chung, các cuộc tiếp xúc cử tri đều thu hút sự quan tâm của người dân; cử tri tham dự đa dạng về thành phần, cơ bản ý kiến đưa ra có trách nhiệm trên tinh thần xây dựng cao. Đặc biệt, không khí buổi tiếp xúc dân chủ, cởi mở. Tất cả các ý kiến đều được đại biểu tiếp thu, giải trình, trao đổi trực tiếp, sau đó được tổng hợp, phân loại để chuyển tới các cơ quan chức năng giải quyết.
Ông Chu Đức Đại, 80 tuổi, thôn Can, xã Hương Gián (Yên Dũng) bày tỏ: "Ngày 29/11/2019, tôi dự hội nghị tiếp xúc cử tri của Đoàn ĐBQH Bắc Giang tại xã. Tôi có nêu ý kiến về vướng mắc trong việc xác nhận liệt sĩ Chu Đình Cạp có phải là con nuôi cụ Dương Thị Nức không để kiến nghị Nhà nước làm thủ tục truy tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam Anh hùng” cho cụ (hiện cụ có con đẻ và con nuôi là liệt sĩ). Thực tình tôi không hy vọng gì, phát biểu cho "bõ tức” thôi vì gia đình đã kiến nghị khắp nơi rồi nhưng không ngờ chỉ mấy hôm sau, Đoàn ĐBQH cử cán bộ đến xác minh, thẩm tra. Tôi thấy cách làm việc như vậy rất chu đáo, khoa học, trách nhiệm; bản thân tôi và gia đình, cử tri trong xã rất tin tưởng”.
Xử lý thấu tình, đạt lý các kiến nghị
Một nguyên tắc mà Đoàn ĐBQH Bắc Giang đề ra, đó là mọi ý kiến cử tri hay đơn thư gửi tới đều được cán bộ tổng hợp, nghiên cứu, phân loại và sàng lọc. Đặc biệt, với những nội dung có vấn đề thì tổ chức đi khảo sát; những vấn đề "nóng” thì xây dựng kế hoạch đi giám sát.
Cách làm này, theo ông Trần Văn Lâm, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh là để không ý kiến nào của cử tri gửi tới bị bỏ qua hay sót lọt. Hơn nữa, việc đi khảo sát, cao hơn là giám sát cũng là thêm một kênh thẩm định lại xem nội dung đơn thư hay đề đạt của người dân có xác đáng không. "Nếu không khảo sát trước khi gửi văn bản yêu cầu các bộ, ngành, địa phương trả lời, thành thử ra mình lại làm khó cho chính quyền; thậm chí không cẩn thận còn vô tình "hùa” theo một vài ý kiến không xác đáng của cử tri, gây khó khăn cho nơi tiếp nhận”- ông Lâm nói.
Thực tế trong số 1.139 đơn thư gửi tới Đoàn ĐBQH trong hơn 4 năm qua thì chỉ có 243 đơn sau khi nghiên cứu được Đoàn chuyển tới cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Số còn lại, nhiều việc đã được các cơ quan từ Trung ương tới địa phương trả lời, không có thông tin, tình tiết mới; nhiều đơn nội dung không rõ ràng, trùng lặp hoặc chưa giải quyết được ngay do chưa có nguồn lực, chính sách, quy định...
"Với những đơn thư không giải quyết, chúng tôi đều có văn bản trả lời, thông báo cho công dân biết. Nhiều trường hợp chúng tôi trực tiếp mời công dân đến làm việc, giải thích cặn kẽ tại sao không trả lời hay không gửi công văn đến cơ quan chức năng để người dân hiểu, tạo sự đồng thuận. Có người sau khi được giải thích thấu tình đạt lý đã tự nguyện rút đơn, cam kết không khiếu kiện kéo dài”- ông Lâm cho biết thêm.
Để giải quyết thấu đáo vấn đề cử tri kiến nghị, không ít vụ việc, Đoàn có văn bản đề nghị cơ quan chức năng cung cấp sâu và toàn diện hơn nội dung quan tâm. Việc một số trường hợp liệt sĩ có tên trong bảng vàng, có mộ trong nghĩa trang nhưng chưa được công nhận liệt sĩ do vướng mắc giấy tờ là một ví dụ.
Theo bà Hà Thị Lan- thành viên Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang, người trực tiếp chất vấn nội dung này với Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, để có được hơn một phút đặt câu hỏi, bà và các đại biểu phải mất cả tháng trời thu thập tài liệu. Từ ý kiến của cử tri xã Lãng Sơn (Yên Dũng) hỏi về xã có 9 liệt sĩ nhưng gia đình chưa được hưởng chế độ, Đoàn đã tổ chức đi khảo sát và đề nghị Sở Lao động- Thương binh và Xã hội thống kê, báo cáo các trường hợp tương tự của cả tỉnh. Kết quả, toàn tỉnh còn 162 trường hợp liệt sĩ hy sinh nhưng chưa được công nhận liệt sĩ, dù có mộ và tên được khắc ở nghĩa trang liệt sĩ xã...
Bà Lan thông tin thêm: "Khi chúng tôi chất vấn tại hội trường vấn đề này, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung rất bất ngờ và hứa sẽ làm việc với tỉnh xem xét, xử lý trong thời gian tới, vì về nguyên tắc có tên trong lịch sử, có bia mộ là được công nhận. Hiện chúng tôi vẫn đang chờ và theo dõi kết quả việc này, đến khi có câu trả lời thỏa đáng mới thôi”.
Có thể nói, những đổi mới trong việc tiếp xúc cử tri, tiếp dân, giải quyết đơn thư trên tinh thần trách nhiệm, cầu thị, lắng nghe, thấu tình đạt lý của Đoàn ĐBQH đã tác động tích cực đến việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Qua đó tăng thêm niềm tin của công dân đối với cấp ủy Đảng, chính quyền, tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, hạn chế phát sinh khiếu kiện đông người, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
BÀI 2: THEO ĐẾN CÙNG CÁC KIẾN NGHỊ
Dù chỉ một hồ sơ đề nghị truy tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng” đang bị vướng mắc hay hàng trăm "sổ đỏ” của hàng trăm gia đình ở Nông trường cam Bố Hạ sau khi giải thể chưa được cấp; dù là 7 hầm cầu chui dân sinh hay cả tuyến Quốc lộ gần 100 km xuống cấp, ảnh hưởng tới đời sống của người dân …; tất cả đều được Đoàn ĐBQH Bắc Giang đeo bám, theo đuổi đến cùng. Mục đích để bảo vệ chính đáng lợi ích của người dân cũng như địa phương.
Rất nhiều "một lần nữa đề nghị…”
Trong văn bản, hồ sơ lưu trữ tại Văn phòng Đoàn ĐBQH Bắc Giang, mỗi vụ việc, kiến nghị của cử tri được sắp xếp thành từng chồng riêng biệt, gọn gàng, khoa học và đa phần, không có tập nào không dày cộm.
Một điểm chung của các tập hồ sơ là đều có nhiều văn bản trở đi trở lại về một vấn đề và rất nhiều lần cụm từ "cử tri tiếp tục phản ánh”, "cử tri tiếp tục đề nghị” và "một lần nữa đề nghị…” được gửi đi từ Văn phòng Đoàn ĐBQH Bắc Giang tới các cơ quan có trách nhiệm.
Việc khắc phục ngập úng khi trời mưa ở 7 cống chui dân sinh trên tuyến Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội- Bắc Giang là một trong số tập tài liệu nhiều "một lần nữa đề nghị” như thế! Đây là vấn đề không mới; cử tri, chính quyền và Đoàn ĐBQH từ khóa trước đã kiến nghị và kiến nghị nhiều lần; tuy nhiên càng về sau, một số cống càng hư hỏng nặng, gây bức xúc và khó khăn trong việc đi lại của người dân và công nhân khi đi qua tuyến đường này.
Ông Trần Văn Lâm- Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Bắc Giang cho biết: Những ngày mưa, chúng tôi đi khảo sát từng cống thì thấy quá thương công nhân và người dân. Đơn cử như hầm chui đoạn qua Khu Công nghiệp Vân Trung (Việt Yên) tại Km 125+974 và Km131+383, lòng hầm tối, chật chội, không có điện chiếu sáng, nước đỏ ngầu ngập ngang bắp chân mà công nhân, người xe vẫn phải bì bõm lội qua. Trong khi cầu vượt thì xa, sợ ảnh hưởng đến giờ làm nên nhiều công nhân phải liều mình băng qua cao tốc. Nhiều vụ tai nạn thương tâm đã xảy ra, rất đau lòng nên không thể không đề nghị khắc phục việc này, dù đó là chuyện "biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.
Bắt đầu trở lại việc kiến nghị với Bộ Giao thông- Vận tải từ đầu năm 2017, không chỉ kiến nghị không, văn bản nào gửi đi, Đoàn ĐBQH đều gửi kèm hình ảnh minh họa để tăng sức nặng. Văn bản gửi đi, Bộ hứa; chưa thấy khắc phục là mấy, lại tiếp tục kiến nghị, chất vấn, gửi tới cả Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Qua không biết bao lần "một lần nữa đề nghị”, gây "sức ép” với Bộ Giao thông- Vận tải và Công ty Cổ phần đầu tư BOT Hà Nội - Bắc Giang, tháng 5/2020 vừa qua, Tổng cục Đường bộ Việt Nam mới chủ trì buổi làm việc, kiểm tra hiện trường cùng đại diện Đoàn ĐBQH Bắc Giang và các cơ quan liên quan để đưa ra phương án khắc phục. Kết quả đến nay, những cống nào có thể khắc phục được tối đa khả năng thoát nước đều được kiểm tra sửa chữa; bổ sung gồ, gờ giảm tốc, sửa chữa lại rãnh dọc hai bên, phần lòng cống hư hỏng. Ngoài ra, nhiều cống được đặt thêm biển cảnh báo mực nước hạn chế lưu thông, chiều cao cống chui…để hướng dẫn người dân đi lại thuận tiện, an toàn.
Trở lại hồ sơ việc đề nghị Nhà nước truy tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng” cho cụ Dương Thị Nức (Hương Gián, Yên Dũng) đang bị vướng. Ngoài tài liệu, đơn thư gia đình gửi tới, còn là sự dày công đi điều tra, tìm hiểu và sau đó là việc "gõ cửa” đi lại nhiều lần của Đoàn tới các cơ quan có trách nhiệm đề nghị giải quyết.
Tại gia đình bà Chu Thị Vạn (78 tuổi), con gái cụ Dương Thị Nức, bà và các con, cháu, đại diện chính quyền địa phương, thôn xóm cho biết: Do hoàn cảnh khó khăn, ông Chu Đình Cạp (sinh năm 1918, tên thật là Nguyễn Ngọc Cạp) được vợ chồng cụ Nức đón về nuôi từ năm lên 4 tuổi. Gia đình đã chuyển họ của ông Cạp từ họ bố đẻ "Nguyễn Ngọc” sang họ bố nuôi là "Chu Đình” và được hai bên gia đình đồng ý. Năm 1950, ông Cạp hy sinh khi tham gia du kích ở địa phương. Sau đó, Nhà nước gửi Giấy báo tử, Bằng Tổ quốc ghi công cho gia đình cụ Nức và đều ghi rõ: "Liệt sĩ Chu Đình Cạp”. Gia đình thờ cúng liệt sĩ Chu Đình Cạp từ năm 1950 đến năm 1972 mới chuyển về gia đình đẻ. Vậy mà không hiểu sao các cơ quan Trung ương vẫn bảo "không có cơ sở để khẳng định liệt sĩ Chu Đình Cạp là con nuôi” nên không thể truy tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng” cho cụ được.
Có ba căn cứ quan trọng để Đoàn ĐBQH Bắc Giang theo đuổi và bảo vệ gia đình cụ Nức, đó là, liệt sĩ Chu Đình Cạp đã đổi từ họ bố đẻ sang họ bố nuôi; Bằng Tổ quốc ghi công cấp năm 1962 ghi theo họ bố nuôi "Chu Đình” và trên thực tế, mối quan hệ nuôi dưỡng này được làng xã, các cụ cao niên, hai họ (họ nuôi, họ đẻ) xác nhận và đã niêm yết công khai ở xã, không có ai có ý kiến phản bác. Hiện sau rất nhiều "một lần nữa đề nghị”, Đoàn đang chờ kết quả trả lời cuối cùng từ phía Bộ Nội vụ.
Bà Chu Thị Vạn- con gái duy nhất còn sống của cụ Dương Thị Nức tâm sự: "Tôi năm nay đã ở tuổi gần đất xa trời, chẳng biết còn sống đến ngày mẹ mình được truy tặng Mẹ anh hùng nữa hay không. Nhưng dù được hay không được, thấy các ông bà ở Quốc hội quan tâm, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho gia đình, tôi cũng ấm lòng”.
Bảo đảm lợi ích người dân, lợi ích địa phương
Thị trấn nông trường cam Bố Hạ được thành lập từ những năm 60 của thế kỷ trước nhưng đến thời điểm giải thể theo quyết định của Chính phủ (năm 2007), gần như 100% các hộ dân của thị trấn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Trong khi trên thực tế, các hộ đều làm nhà ở, trồng cây ăn quả,, cây lâu năm, cho nhượng, bán tặng….mà không có bất cứ giấy tờ gì hợp pháp.
Thấy được sự bất hợp lý này và theo kiến nghị, tâm tư nguyện vọng của cử tri muốn được "an cư” hợp pháp, tháng 8/2018, Đoàn ĐBQH Bắc Giang quyết định giám sát chuyên đề việc cấp GCNQSDĐ đối với các hộ dân sau khi Nông trường cam giải thể.
Tại thời điểm giám sát, 214 hộ sáp nhập về hai xã Đồng Hưu và Đông Sơn của huyện Yên Thế mới chỉ có 116 hộ được cấp bìa đỏ, tập trung ở xã Đông Sơn, số còn lại 70 hộ xã Đồng Hưu chưa hộ nào được cấp. Với 244 hộ sáp nhập về xã Quang Thịnh (Lạng Giang) thì cả 244 hộ chưa được cấp.
Ông Nguyễn Ngọc Sơn- Chủ tịch UBND huyện Yên Thế cho biết: Việc cấp sổ đỏ cho các hộ dân ở Nông trường cam Bố Hạ sau khi giải thể là rất cần thiết. Tuy nhiên, do vướng mắc trong việc thiết lập bản đồ, giấy tờ liên quan… nên dẫn tới tình trạng chậm muộn. Sau khi có kiến nghị của Đoàn ĐBQH, chúng tôi đã tập trung cao và đến nay, chỉ còn 22 hồ sơ ở xã Đồng Hưu chưa cấp.
Tại xã Quang Thịnh (Lạng Giang), từ chỗ chưa có hộ dân nào được cấp năm 2018, bằng sự theo dõi, đôn đốc, giám sát quyết liệt của Đoàn ĐBQH và sự vào cuộc tích cực của chính quyền địa phương, hiện đã có 114/244 trường hợp được cấp sổ đỏ; 154 trường hợp còn lại đã được thống kê, tháo gỡ cấp trong thời gian tới.
Gia đình chị Quách Thị Thạo, bản Gia Bình được cấp sổ đỏ đợt đầu tiên của xã Đồng Hưu phấn khởi nói: Bố mẹ chúng tôi đi khai hoang ở đây từ những năm 60. Vợ chồng tôi lấy nhau, sinh con rồi có cháu, xây nhà xây cửa mấy chục năm mà không có giấy tờ gì chắc chắn. Tháng 9/2018, nhà tôi được cấp sổ đỏ, mừng không để đâu hết mừng. Giờ chúng tôi có thể đi thế chấp ngân hàng vay vốn làm ăn, làm giấy tờ cho con, không lo tranh chấp…
Theo bà Hoàng Thị Hoa- Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, ĐBQH Bắc Giang, những việc như thế này, nếu không giám sát, chính quyền không quyết liệt thì rất khó thành. Bởi nhiều trường hợp phải vận dụng, cả lý và tình trên cơ sở thực tiễn. Quan điểm của chúng tôi khi làm việc với chính quyền là cái gì có lợi cho dân thì cố gắng làm, vận dụng. Phải vì dân thì mới làm được!
Việc đề nghị cải tạo, nâng cấp tuyến Quốc lộ 31 từ TP Bắc Giang đi Lục Ngạn, Sơn Động cũng là một trong những vấn đề "nóng” mà Đoàn ĐBQH Bắc Giang liên tục kiến nghị với QH. Thảo luận KT- XH tại hội trường- kiến nghị; chất vấn Bộ trưởng Bộ Giao thông- Vận tải- kiến nghị; kiến nghị một lần chưa có kết quả, kiến nghị tiếp, kiến nghị nhiều lần; kiến nghị bằng văn bản gửi trực tiếp Bộ trưởng chưa xong; kiến nghị thông qua cả Ban Dân nguyện…
"Chúng tôi không thể không kiến nghị với Bộ Giao thông- Vận tải vì đây là tuyến đường giao thông huyết mạch cả về kinh tế lẫn quốc phòng, tuyến đường độc đạo nối vùng sản xuất vải thiều lớn nhất cả nước với thị trường trong nước, quốc tế. Trong khi mỗi mùa thu hoạch vải thiều đường lại tắc nghẽn, xuống cấp trầm trọng, rất xót ruột”- Ông Trần Văn Lâm- Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Bắc Giang bày tỏ.
Sau nhiều lần kiến nghị, hiện Bộ Giao thông- Vận tải đã nhất trí chủ trương đầu tư cải tạo, nâng cấp đồng bộ tuyến đường trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025. "Như thế bước đầu đã là thành công với người dân, với địa phương”- ông Lâm cho hay.
Dù chỉ là một việc liên quan tới một người dân hay là những việc có tầm vĩ mô, liên quan tới quyền lợi chính đáng của địa phương, Đoàn ĐBQH Bắc Giang đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm và cả tâm huyết của mình khi đeo bám, giám sát, kiến nghị các vấn đề. Điều đó đã góp phần ổn định tình hình và tạo động lực thúc đẩy KT- XH phát triển bền vững./.
BÀI 3: TĂNG NIỀM TIN, TĂNG TRÁCH NHIỆM
Quốc hội khóa XIV, nhiệm kỳ 2016-2021 đang tiến hành kỳ họp thứ 10. Điều đó có nghĩa chỉ còn hơn một kỳ họp nữa, nhiệm kỳ 2016-2021 sẽ kết thúc. Nhìn lại chặng đường gần 5 năm qua, Đoàn ĐBQH Bắc Giang đã có nhiều kết quả nổi bật, góp phần làm giàu thêm truyền thống vẻ vang 75 năm Quốc hội Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn có việc Đoàn thấy còn băn khoăn, chưa hài lòng, "mắc nợ” với cử tri. Niềm tin của cử tri càng tăng thì trách nhiệm của mỗi ĐBQH càng lớn, ĐBQH càng phải có bản lĩnh, trình độ và hiểu biết, dám nói, dám chịu trách nhiệm.
Vẫn còn nhiều băn khoăn
Bà Leo Thị Lịch, Ủy viên Thường trực Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, ĐBQH Bắc Giang, người nổi tiếng với chất vấn "cao tốc nhưng mãi chưa là cao tốc” khi chất vấn Bộ trưởng Bộ Giao thông- Vận tải cho biết: Tuyến cao tốc Hà Nội- Bắc Giang đi vào khai thác đã lâu nhưng đường gom đoạn Hà Nội- Bắc Ninh không có, xe máy, ô tô đi chung làn; các điểm cầu Xương Giang, Như Nguyệt bị thắt nút cổ chai khiến tốc độ lưu thông chậm, nguy cơ cao xảy ra tai nạn và ùn tắc. Chính vì những bất cập đó mà tôi đã chất vấn Bộ trưởng về chủ trương và lộ trình để tuyến đường này "thực sự là cao tốc” chứ không thể như hiện tại, cao tốc mà chưa phải là cao tốc, cử tri lần nào tiếp xúc cũng kiến nghị.
Chất vấn là vậy, Bộ trưởng tiếp thu nhưng về xây dựng hệ thống đường gom, hiện Bộ đang khó khăn trong giải phóng mặt bằng, tiến độ chậm. Còn đầu tư cầu Xương Giang (qua sông Thương) và cầu Như Nguyệt (qua sông Cầu) thì không thể bổ sung hạng mục đầu tư được, chỉ có thể giảm ùn tắc bằng tổ chức giao thông. Như vậy, tất cả các bất cập, kiến nghị của cử tri dù xác đáng nhưng đều chưa có giải đáp cụ thể, vẫn "bí” kinh phí, mặt bằng…
Nhiều kiến nghị khác, ví dụ liên quan tới ô nhiễm nước sông Cầu, khi Đoàn Bắc Giang chất vấn về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên- Môi trường song câu trả lời cũng chưa được trọng tâm, cụ thể. Thậm chí cả việc đề nghị truy tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” cho cụ Dương Thị Nức (đã nêu ở các kỳ báo trước) tuy đã kiến nghị cả năm trời vẫn chưa có câu trả lời chính thức.
Đơn thư khiếu nại tố cáo do Đoàn ĐBQH Bắc Giang chuyển tới, đa số được các cơ quan có liên quan trả lời, tuy nhiên chất lượng giải quyết nhiều cơ quan còn hạn chế, cá biệt có nơi còn giải quyết không đúng quy định của pháp luật, kéo dài thời gian, gây tâm trạng bức xúc cho người khiếu nại tố cáo.
Một băn khoăn nữa của các ĐBQH, đó lại là từ chính phía cử tri. Đi tiếp xúc cử tri, nhiều vị ĐBQH tâm sự, nhiều cuộc, cử tri đến phát biểu như "cháy nhà chết người”, đùng đùng xả cho "sướng mồm”, hả giận song không cần nghe giải đáp, nói xong lại… đạp xe về. Nhiều ý kiến cử tri mới chỉ "nghe nói”, mới thấy "hiện tượng” nhưng đã quy nạp thành ra "bản chất”, nói quá lên, khiến không khí tiếp xúc nặng nề, thậm chí làm phức tạp tình hình.
Cá biệt có người đi khiếu kiện chuyên nghiệp, kỳ tiếp dân nào cũng tới, cũng đòi hỏi, trong khi đã được cán bộ giải thích không thể giải quyết được hơn. Ngược lại, có vấn đề cử tri có tâm tư, khúc mắc thật nhưng không biết cách diễn đạt; thành thử ra, nếu đại biểu không lắng nghe, không chắt lọc và phân loại thì dễ bị bỏ qua những ý kiến xác đáng, những quyền lợi chính đáng của cử tri.
Với việc xử lý đơn thư cũng vô cùng phức tạp. Trong thời đại vi tính, tin học, một nội dung đơn thư được người dân phô-tô, sao in gửi khắp nơi; gửi năm này chưa giải quyết xong thì lưu lại, sang năm gửi tiếp nên đơn thư gửi tới nhiều mà nội dung trùng lặp, nhiều nơi nhận. Theo thống kê của Đoàn ĐBQH Bắc Giang, chỉ có khoảng hơn 20% số đơn thư gửi tới là có thể xem xét đủ điều kiện giải quyết và chuyển tới cơ quan chức năng được; số còn lại hoặc đã trả lời, hoặc trả lời rồi nhưng dân vẫn kiến nghị, đòi hỏi quá thẩm quyền…, làm khó cho cán bộ, người tiếp nhận phải đọc và sàng lọc.
Hoạt động tiếp xúc cử tri, dù đã có nhiều đổi mới, tiếp xúc theo chuyên đề, linh hoạt trong các điểm tiếp xúc song trên thực tế, không ít buổi tiếp xúc còn hình thức. Có nơi chủ yếu là "đại cử tri” đi dự họp, phát biểu xuôi chiều, do đó khó có ý kiến đắt, phản ánh đúng những băn khoăn, bất cập ở cơ sở. Lại có những nơi ngược lại, cử tri tranh thủ diễn đàn, tiếp xúc với ĐBQH để đấu tố cán bộ, đòi hỏi quá mức, thậm chí quá đáng về chế độ…
Để thực sự là người đại biểu của dân
ĐBQH không phải là một nghề và không có trường lớp nào đào tạo ra các nghị sĩ nghị trường cả mà dù chuyên trách hay không, ĐBQH phải là người đại diện cho cử tri, nhân dân. Niềm tin của cử tri càng tăng thì trách nhiệm của mỗi ĐBQH càng lớn, ĐBQH càng phải có bản lĩnh, hiểu biết trước các vấn đề mình đề cập.
"Nhiều cử tri có "định kiến” Đoàn ĐBQH Bắc Giang phát biểu còn hiền quá, ít làm nóng hội trường nhưng không hoàn toàn như vậy. Những gì cử tri thấy trên ti vi qua các buổi truyền hình trực tiếp chỉ là một phần hoạt động của Quốc hội mà thôi. Quan điểm của chúng tôi là phát biểu trên tinh thần xây dựng, truyền tải đầy đủ và kịp thời ý kiến cử tri bằng nhiều cách (có thể gửi văn bản, thảo luận, thậm chí trao đổi trực tiếp) chứ không phải để tạo dấu ấn nghị trường. Đặc biệt, dù phát biểu, kiến nghị gì thì đều phải cân bằng, hài hòa giữa các lợi ích: Lợi ích người dân, lợi ích địa phương và cả lợi ích quốc gia”- bà Lê Thị Thu Hồng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH Bắc Giang bày tỏ.
Thực tế không có cơ quan, đơn vị, địa phương nào muốn vấn đề của ngành mình "được” Quốc hội mang ra mổ xẻ, chưa kể đấy là những vấn đề trái chiều, nhạy cảm. Vậy nên, để chất vấn hay gửi văn bản đề nghị trả lời, mỗi ĐBQH phải rất bản lĩnh, dám nói dám làm, dám chịu trách nhiệm và cả hậu quả. Đôi khi, đó còn là những vấn đề hết sức tế nhị khi đa phần lãnh đạo các bộ, ngành T.Ư đều là ĐBQH, kỳ họp nào cũng gặp, cùng thảo luận tổ; cứ đeo bám, chất vấn trên hội trường, rồi gửi văn bản kiến nghị, ít nhiều đều ngại.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất trong một quốc gia. Để giải quyết hài hòa, cân bằng giữa các lợi ích là điều không đơn giản. Điều đó đòi hỏi mỗi ĐBQH phải nâng cao trình độ, chất lượng hoạt động và thực sự tâm huyết. Đơn cử như việc cấp "sổ đỏ” ở Nông trường cam Bố Hạ, nếu không sát sao, chính quyền không quyết liệt, không vận dụng linh hoạt trên cơ sở vì quyền lợi của nhân dân thì khó có thể giải quyết được. Hay việc ngập úng, xuống cấp ở các cống chui trên cao tốc Hà Nội- Bắc Giang, nếu ngại, không giám sát đến cùng thì hàng vạn người dân, công nhân ngày ngày đi làm qua tuyến đường này khổ, đại biểu chưa hết trách nhiệm với dân.
Quốc hội khóa XIV sắp hoàn thành nhiệm kỳ với nhiều kết quả tốt đẹp. Đoàn ĐBQH Bắc Giang với 7 đại biểu, trong đó có 3 đại biểu chuyên trách, 4 đại biểu kiêm nhiệm. Ngoài thời gian làm đại biểu đại diện của dân, họ còn phải hoàn thành tốt công việc thường ngày. Nói vậy để thấy sự nỗ lực, cố gắng của mỗi đại biểu trên vai trò trách nhiệm của mình trước cử tri.
Sự giám sát, truyền tải ý kiến cử tri, thậm chí là sự đeo bám, theo đến cùng các sự việc, dù chỉ bảo vệ một người dân hay lớn hơn là lợi ích chính đáng của nhiều người, của tỉnh, đã góp phần làm giảm bớt khiếu kiện, ổn định tình hình và quan trọng hơn, giúp nâng cao đạo đức công vụ, ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức trong giải quyết công việc, hướng tới vì nhân dân phục vụ, vì lợi ích của nhân dân.
PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG
Giải B, năm 2020
Nhóm tác giả: Thanh Hải, Mai Toan, Hoài Thu
Thể loại: Phản ánh
KỲ I: NHIỀU TÁC NHÂN GÂY HẠI
N |
hững năm gần đây, Bắc Giang có nhiều người mắc bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là ung thư. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên được các chuyên gia y tế đánh giá là do tác động của môi trường sống ô nhiễm và nguồn thực phẩm không bảo đảm an toàn.
Nỗi lo ô nhiễm môi trường
Thôn Đồng Đạo, xã Hợp Thịnh (Hiệp Hòa) có 12 hộ làm nghề tái chế phế liệu. Trung bình mỗi ngày các hộ xử lý hàng chục tấn ni - lông thành các sản phẩm như dây, hạt nhựa để tái sử dụng trong cuộc sống. Đến khu vực sản xuất, chúng tôi cảm nhận rõ mùi nhựa bị đốt cháy nồng nặc khiến cho không khí ngột ngạt. Trong tiếng máy kêu ầm ào và không khí nóng hầm hập, từng tốp công nhân đứng vận hành máy nhễ nhại mồ hôi nhưng không mấy ai chú ý đeo khẩu trang để giữ gìn sức khỏe.Là hộ đầu tiên làm nghề này, đến nay gia đình anh Nguyễn Tiến Duẩn có gần 10 năm tái chế phế liệu. Hiện gia đình anh giải quyết việc làm cho 13 công nhân, thu nhập bình quân 3-7 triệu đồng/người/tháng. Theo anh Duẩn và những công nhân ở đây, công việc này tận dụng được lao động trung tuổi làm thời vụ lúc nông nhàn. Thu nhập từ công việc này giúp họ trang trải cuộc sống nên dù thường xuyên tiếp xúc với không khí độc hại song chưa ai nghĩ sẽ chuyển sang công việc khác.
Làng tái chế phế liệu Đồng Đạo chỉ là một trong nhiều làng nghề gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh. Ví như làng nấu rượu xã Vân Hà; làng giết mổ trâu, bò Phúc Lâm, xã Hoàng Ninh (Việt Yên) trước đây từng nằm trong danh sách những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của cả nước. Sau này, từ nhiều nguồn, chính quyền địa phương đã phải đầu tư để khắc phục, xử lý nhưng hệ lụy về ô nhiễm, đến nay vẫn chưa giải quyết triệt để.
Vừa qua, Sở Tài Nguyên và Môi trường đã phối hợp với Sở Công Thương, Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh, UBND các huyện, TP rà soát, xác minh tại 56 doanh nghiệp có sử dụng hóa chất tại các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh. Kết quả cho thấy, tổng lượng hóa chất sử dụng của các công ty này là khoảng 75 nghìn tấn/năm để phục vụ các hoạt động như: Sơn, mạ; lắp ráp linh kiện điện tử; sản xuất ván gỗ; xử lý nước thải, khí thải. Nhiều loại hóa chất có độc tính cao, nguy cơ cháy nổ, ăn mòn.
Qua kiểm tra nhận thấy cơ bản các doanh nghiệp đã quan tâm thực hiện công tác bảo vệ môi trường, xây dựng, lắp đặt hệ thống thu gom, xử lý nước thải và bố trí khu lưu giữ hóa chất riêng biệt... Nhưng việc quản lý, sử dụng hóa chất còn hạn chế như: Khu vực sản xuất, kho lưu giữ hóa chất, chất thải tại một số doanh nghiệp vẫn phát sinh mùi, hơi hóa chất do chưa được thu gom và xử lý triệt để, nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động.
Trong quá trình sản xuất, có đơn vị để xảy ra tình trạng rò rỉ hóa chất như tại Công ty TNHH Vina Cell Technolygy, Khu công nghiệp Vân Trung vào đầu tháng 6-2019; một số đơn vị khác bố trí kho chứa hóa chất dễ cháy gần khu vực chứa dầu thải, vật liệu dễ cháy, để hóa chất vương vãi, chưa thực hiện tập huấn an toàn hóa chất cho người lao động. Gần đây, Công ty TNHH Công nghệ Gloveland Vina, Cụm công nghiệp Việt Tiến (Việt Yên) thường xả khói đen ra môi trường. Sáng 28-12-2019, khi qua khu vực này, chúng tôi vẫn thấy cột khói đen tỏa ra nghi ngút. Chị T sống gần khu vực này lo lắng: Mấy tháng nay gần như ngày nào Công ty này cũng xả khói từ 1-2 tiếng, lúc thì buổi sáng, khi thì buổi chiều. Các gia đình ở gần đây làm nghề buôn bán nên thường xuyên mở cửa nhà. Mọi người rất đau đầu khi phải sống chung với mùi khói từ Công ty xả ra.
Những bất cập về bảo vệ môi trường không chỉ xảy ra tại các làng nghề, khu, cụm công nghiệp mà còn tồn tại trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Tại Lục Ngạn, vùng trồng cây ăn quả lớn nhất của tỉnh, người dân thường xuyên phải sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để chăm sóc cây trồng, tái tạo đất và phòng trừ sâu bệnh. Theo lãnh đạo UBND huyện, ước tính mỗi năm toàn huyện sử dụng khoảng 120-150 tấn thuốc bảo vệ thực vật và hàng chục nghìn tấn phân bón.
Ông Nguyễn Văn K, chủ nhà vườn ở xã Thanh Hải (Lục Ngạn) có 4 ha trồng cam và vải thiều cho biết: "Thu nhập của gia đình đều trông vào vườn cây này. Để có ngày hái quả chúng tôi phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cho cây khỏi sâu bệnh và phát triển tốt. Các khu vườn và nhà ở liền kề nên nhiều lúc phun, mùi thuốc cũng khó chịu nhưng mà cũng phải chấp nhận”. Thực tế, tình trạng như gia đình ông K đang diễn ra ở nhiều vùng quê trong tỉnh. Ở đâu tập trung sản xuất nông sản lớn, ở đó đều có hiện tượng dùng thuốc bảo vệ thực vật với lượng lớn.
Ông Trương Công Đại, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường tỉnh cho rằng thời điểm phun, thuốc bảo vệ thực vật làm ảnh hưởng đến môi trường không khí. Còn về lâu dài, lượng thuốc tồn dư sẽ tác động tiêu cực đến môi trường đất và nguồn nước ngầm tại đây. Điều này cũng đồng nghĩa là sức khỏe người dân xung quanh cũng bị ảnh hưởng.
Gia tăng bệnh hiểm nghèo
Những năm gần đây, người mắc bệnh hiểm nghèo, nhất là ung thư tại Bắc Giang gia tăng. Ghi nhận tại Bệnh viện Ung bướu tỉnh, năm 2017 đơn vị điều trị cho hơn 4,5 nghìn lượt người bị ung thư. Đến năm 2019, bệnh nhân ung thư lên tới 7,1 nghìn lượt. Theo đánh giá của bác sĩ Nguyễn Ngọc Toản, Phó Trưởng khoa Nội tổng hợp (Bệnh viện Ung bướu tỉnh), tỷ lệ người bị ung thư chiếm đa số trong tổng số người đến điều trị nội, ngoại trú tại đây.
Tuy vậy, đây là số liệu chưa phản ánh hết thực trạng bởi bệnh nhân ung thư có thể khám, điều trị ở các bệnh viện tuyến trung ương hoặc cơ sở y tế khác trong tỉnh. Các bác sĩ lo ngại căn bệnh này đang có xu hướng trẻ hoá. Trước đây bệnh thường xuất hiện ở người già, trung niên thì nay cả lứa tuổi thanh niên.
Với bệnh nhân ung thư, các bác sĩ phải phối hợp nhiều phương pháp nên chi phí điều trị tốn kém. Chị N.T.H, 32 tuổi, xã Châu Minh (Hiệp Hòa) kể tháng 3-2018 chị phát hiện bị ung thư máu, đến nay qua 5 lần truyền hóa chất. Sống ở nông thôn, thu nhập chẳng có gì ngoài vài sào ruộng nên chi phí mỗi lần điều trị và đi lại mất hơn 20 triệu đồng là gánh nặng rất lớn với gia đình. Chồng chị H bị liệt tay trái sau một vụ tai nạn giao thông cách đây gần 10 năm, bố mẹ chồng già yếu, 2 con nhỏ. Gia đình trước đây thuộc hộ nghèo, từ khi chị mắc bệnh khó khăn càng thêm chồng chất.
Lo lắng trước thực tế gia tăng bệnh hiểm nghèo trong cộng đồng, bác sĩ Đỗ Tiến Khanh, Trạm trưởng Trạm Y tế xã Tân Tiến (TP Bắc Giang) đã tự tiến hành khảo sát, thống kê tại địa bàn xã. Cụ thể, từ năm 2011 đến năm 2018, xã có 123 người dân bị ung thư qua đời. "Trong số đó 35 người ung thư phổi, 32 người ung thư gan, 19 người ung thư dạ dày. Đa số người mắc bệnh trong độ tuổi lao động, là trụ cột gia đình. Nhiều người trong số đó thường xuyên tiếp xúc với hóa chất. Ví như trường hợp ông N.X.K mất cách đây vài năm khi chưa đến 60 tuổi. Ông này có hàng chục năm làm nghề mộc, tiếp xúc trực tiếp với không khí nhiễm tạp chất bụi gỗ, bụi sơn”, bác sĩ Khanh cho biết.
Tìm hiểu ở nhiều gia đình có người thân mắc bệnh hiểm nghèo tại các huyện Việt Yên, Hiệp Hòa, Lục Ngạn, Lục Nam, TP Bắc Giang, chúng tôi nhận thấy rất nhiều khó khăn mà họ gặp phải. Đau đớn về thể xác, mệt mỏi về tinh thần cộng với chi phí lớn cho mỗi lần chữa bệnh khiến họ có nguy cơ trở thành hộ nghèo, cận nghèo. Sức khỏe người dân bị ảnh hưởng, bệnh hiểm nghèo có chiều hướng gia tăng là tiếng chuông cảnh báo về môi trường ô nhiễm, sản xuất chưa bảo đảm an toàn.
KỲ II: SẢN XUẤT, KINH DOANH AN TOÀN VÌ
SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
Sức khỏe là vô giá. Cùng với giải pháp thúc đẩy kinh tế phát triển, chính quyền, cơ quan chức năng và người dân cần chung tay bảo vệ môi trường, ngăn chặn, đẩy lùi những yếu tố gây nguy hại đến sức khỏe, nâng chất lượng cuộc sống.
Sức khỏe là vô giá. Cùng với giải pháp thúc đẩy kinh tế phát triển, chính quyền, cơ quan chức năng và người dân cần chung tay bảo vệ môi trường, ngăn chặn, đẩy lùi những yếu tố gây nguy hại đến sức khỏe, nâng chất lượng cuộc sống.
Kiên quyết xử lý vi phạm
Bắc Giang là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất cả nước. Năm 2019, tổng vốn đầu tư từ các dự án đạt 138,6 triệu USD, gấp 3,3 lần so với năm 2018. Các cơ quan chức năng của tỉnh nỗ lực cải cách hành chính, hỗ trợ thủ tục để thu hút doanh nghiệp đầu tư song cũng yêu cầu chủ đầu tư cam kết, chấp hành đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường; nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Trong năm, từ kết quả người dân phản ánh và kiểm tra của cơ quan chức năng, Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường đã ra quyết định thanh tra, kiểm tra gần 1 nghìn cơ sở, xử lý nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về môi trường, đồng thời tham mưu với Chủ tịch UBND tỉnh xử phạt nghiêm khắc những trường hợp cố tình chây ỳ. Báo cáo của ngành tài nguyên - môi trường, trong 3 năm (2016 đến tháng 9-2019), cấp tỉnh, cấp huyện đã thanh tra, kiểm tra đối với hơn 1,1 nghìn cơ sở, xử lý vi phạm, nộp ngân sách hơn 13 tỷ đồng. Lực lượng cảnh sát môi trường đã tập trung điều tra, phát hiện 74 vụ gây ô nhiễm môi trường, đề xuất xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2,7 tỷ đồng.
Trong đó có một số doanh nghiệp cố tình không chấp hành quy định về bảo vệ môi trường bị phạt ở mức cao. Cụ thể, tháng 7-2019, Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường ký quyết định xử phạt 70 triệu đồng và đình chỉ hoạt động 9 tháng đối với Công ty TNHH Bao bì Triệu Long, Cụm công nghiệp Việt Tiến (Việt Yên) do vi phạm quy định về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên Công ty trì hoãn, không thi hành quyết định nên ngày 10-10-2019, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lại Thanh Sơn ký quyết định xử phạt 130 triệu đồng.
Vẫn còn nhiều mối lo
Ông Vũ Văn Tưởng, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường cho biết: "Hiện trạng môi trường nước, không khí, chất thải nguy hại đã và đang được kiểm soát. Dẫu vậy, tại các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, vấn đề môi trường vẫn phải quan tâm đặc biệt”. Kết quả kiểm tra của Sở Tài nguyên và Môi trường đã chỉ ra việc bảo vệ môi trường trên địa bàn thuộc thẩm quyền cấp huyện, xã nhưng thực tế chưa được quan tâm thường xuyên. Chính quyền một số địa phương chưa quyết liệt, còn nể nang để doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trục lợi, vi phạm môi trường sống và ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó, hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp, đô thị trên địa bàn tỉnh còn thiếu đồng bộ. Một số doanh nghiệp khi đầu tư vào địa bàn không thực hiện đúng yêu cầu về bảo vệ môi trường hoặc chưa được xác nhận hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường đã hoạt động.
Đáng lo ngại là tình trạng ô nhiễm môi trường nước sông Cầu có xu hướng gia tăng. Tại buổi tiếp xúc với Đại biểu Quốc hội khóa XIV ngày 30-11-2019, các cử tri Đặng Thị Nhã, xã Mai Đình (Hiệp Hòa), Trần Đình Lục, xã Phúc Hòa (Tân Yên) kiến nghị UBND tỉnh kiên quyết loại trừ các dự án gây ô nhiễm môi trường, có hình thức xử lý nghiêm với tổ chức, cá nhân có hành vi hủy hoại môi trường và sức khỏe người dân. Hiện người dân nhiều địa phương trong tỉnh đã thực hiện quy trình sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ; VietGAP… để tạo ra sản phẩm sạch cung cấp ra thị trường song bên cạnh đó, kiểu sản xuất "rau hai luống, lợn hai chuồng” vẫn còn tồn tại.
Nêu cao ý thức trách nhiệm
Thực tế cho thấy chi phí cho nhân lực, vật tư, thời gian và công sức để khắc phục môi trường nguồn nước, không khí, đất bị ô nhiễm, điều trị chăm sóc sức khỏe nhân dân sẽ vô cùng tốn kém. Vậy nên giải pháp trước hết đặt ra cho cấp ủy, chính quyền vẫn là coi trọng tiêu chí "sạch” trong thu hút đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Do vậy, các cơ quan có trách nhiệm cần tiếp tục làm tốt vai trò "gác cổng” nghiên cứu, tham mưu với UBND tỉnh không tiếp nhận các dự án sử dụng nhiều hóa chất có độc tính cao, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.Ngành chức năng tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm. Trong quá trình giám sát cần phát huy vai trò của người dân địa phương, kịp thời thông tin với chính quyền, cơ quan chức năng các dấu hiệu vi phạm.
Phát triển kinh tế cần đi đôi với bảo vệ môi trường, nâng chất lượng cuộc sống, không chỉ có bữa ăn ngon mà còn phải sạch và an toàn. Tại một số cuộc họp gần đây, khi đề cập đến vấn đề môi trường, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đều khẳng định quan điểm tỉnh Bắc Giang không đánh đổi môi trường lấy kinh tế. Theo đó, UBND tỉnh tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện để nông dân sản xuất nông sản sạch, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Nhân rộng những điển hình sản xuất theo hướng sản phẩm hữu cơ, VietGAP… để tạo ra nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn xanh, sạch cung cấp ra thị trường. Cơ quan chức năng kiên quyết tiêu hủy những sản phẩm không rõ nguồn gốc, không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng theo quy định. Sở Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan liên quan, UBND huyện, TP tăng cường kiểm tra, giám sát đi đôi với xử lý vi phạm. Siết chặt quản lý đối với các doanh nghiệp nguy cơ cao về xả thải ô nhiễm ra không khí, nguồn nước.
Để giải quyết tận gốc vấn đề ô nhiễm môi trường đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nòng cốt là cấp ủy, chính quyền và ngành chức năng trong quản lý, chỉ đạo, điều hành. Tiếp tục đầu tư kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường như xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề; các điểm ô nhiễm phát sinh. Đồng thời đầu tư trang thiết bị lắp đặt trạm quan trắc, giám sát nước mặt tại 3 con sông lớn (sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam). Đưa tiêu chí thực hiện các nội dung, nhiệm vụ trong Nghị quyết số 139-NQ/TU làm căn cứ để đánh giá, xếp loại thi đua hằng năm. Ngành y tế đẩy mạnh công tác truyền thông dự phòng chăm sóc sức khỏe, nâng cao ý thức người dân, nói không với thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ.
CÁC TÁC PHẨM
ĐOẠT GIẢI C
LÀM GIẢ HỒ SƠ HƯỞNG CHẾ ĐỘ TNXP: LỢI DỤNG CHÍNH SÁCH, CỐ TÌNH LÀM TRÁI
Giải C, năm 2016
Nhóm tác giả: Thế Phương, Thanh Hải, Thùy Ninh
Thể loại: Điều tra
KỲ I: NHIỀU HỒ SƠ SAI QUY ĐỊNH
L |
ợi dụng chính sách chi trả chế độ cho thanh niên xung phong (TNXP) tham gia phục vụ kháng chiến và xây dựng kinh tế mới, một số đối tượng đã làm giả hồ sơ nhằm trục lợi, gây bức xúc dư luận.
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Cựu TNXP xã bị tố
Thời gian gần đây, ông Phạm Duy Hiền và một số người dân thôn Càn, xã Hương Sơn (Lạng Giang) gửi đơn đến nhiều nơi tố cáo ông Vũ Ngọc Bổng, thôn 19, nguyên Phó Chủ tịch Hội Cựu TNXP xã Hương Sơn không tham gia TNXP nhưng vẫn "chạy" trở thành hội viên rồi đảm nhận vị trí lãnh đạo hội cơ sở, Trưởng Ban liên lạc truyền thống Đội TNXP phiên hiệu đơn vị N79-83. Ở vị trí này, ông Bổng đã kết nạp hội viên cựu TNXP, xác nhận không đúng quy định cho nhiều người, tạo điều kiện cho họ làm hồ sơ đề nghị hưởng chế độ TNXP gây dư luận xấu ở địa phương. Đáng chú ý, người được kết nạp, xác nhận đều phải nộp cho ông Bổng một số tiền nhất định. "Chúng tôi đã có đơn tố cáo việc làm sai trái trên đến cơ quan chức năng nhiều tháng nay nhưng hiện ông Bổng vẫn chưa bị xử lý”- ông Hiền bức xúc.
Để làm rõ nội dung công dân tố cáo, chúng tôi đã làm việc với các bộ phận, cá nhân liên quan, trong đó có ông Vũ Ngọc Bổng và nhận thấy phản ảnh của công dân là có cơ sở. Bản thân ông Bổng khẳng định tham gia TNXP năm 1955 tại C44, lúc đầu đóng tại Lim (Bắc Ninh) sau đó chuyển về Bắc Giang. Về thời điểm, ông Bổng nói không nhớ rõ. Khoảng năm 1996, 1997 ông được Ban liên lạc Hội Cựu TNXP huyện Lạng Giang kết nạp vào Hội, sau đó được Hội Cựu TNXP tỉnh chỉ định làm Trưởng Ban liên lạc đơn vị N79-83. Tuy nhiên, ông Bổng không đưa ra được bất kỳ văn bản, giấy tờ nào chứng minh bản thân tham gia TNXP. Trong lý lịch quá trình công tác của ông Bổng tại Tổng cục Đường sắt (Bộ Giao thông - Vận tải) cũng không có dòng nào ghi ông từng tham gia TNXP (!?).
Từ nội dung tố cáo, UBND xã Hương Sơn đã thành lập tổ công tác giải quyết vụ việc. Ông Phạm Văn Trung, Chủ tịch UBND xã Hương Sơn cũng khẳng định ông Bổng chưa trình được giấy tờ nào về việc đã tham gia TNXP trong kháng chiến. Còn việc nhận tiền của một số người để làm giúp hồ sơ, qua kiểm tra, đối chất với người liên quan, tổ công tác kết luận ông Bổng có nhận tiền làm giúp hồ sơ TNXP.
Hồ sơ không hợp lệ vẫn được
Trước tố cáo của công dân, cơ quan chức năng huyện Lạng Giang đã vào cuộc và phát hiện nhiều điểm bất hợp lý trong việc lập hồ sơ đề nghị hưởng chế độ TNXP cho 87 người ở xã Hương Sơn. Trong hồ sơ, các đối tượng đều khai là TNXP ở đơn vị N79- 83. Nhưng điều bất ngờ là, khi cơ quan chuyên môn yêu cầu khai lại để đối chứng thì chỉ có một số người khai giống hồ sơ ban đầu, còn lại đều sai lệch, thậm chí nhiều người không phải ở đơn vị N79-83.
Ông Nghiêm Đình Tuân, Phó trưởng phòng Nội vụ huyện Lạng Giang cho biết: "Từ kết quả này, UBND huyện chỉ đạo các phòng chức năng, chính quyền địa phương tiếp tục sàng lọc, kiểm tra và phát hiện nhiều sai phạm tiếp theo”. Cụ thể, việc xác nhận danh sách TNXP của đơn vị N79-83 chưa đúng hướng dẫn. Theo quy định, để làm hồ sơ, đối tượng phải có một trong các giấy tờ chứng minh là TNXP như: Lý lịch cán bộ hoặc lý lịch đảng viên khai trước ngày Quyết định số 104/1999/QĐ-TTg ngày 14-4-1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách đối với TNXP có hiệu lực thi hành; giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp khi TNXP trở về địa phương, như: Giấy hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị quản lý TNXP; giấy chuyển thương, chuyển viện, phiếu sức khỏe, giấy khen, giấy chứng nhận tham gia TNXP, giấy điều động công tác, giao nhiệm vụ... Trường hợp không có các giấy tờ trên thì phải nộp bản khai có chứng thực của UBND cấp xã nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trước khi đi TNXP...
Qua kiểm tra, cơ quan chức năng phát hiện lãnh đạo UBND xã Hương Sơn, cụ thể là ông Lưu Xuân Lý (khi đó là Phó Chủ tịch UBND xã) không chỉ ký xác nhận cho TNXP trên địa bàn xã mà còn xác nhận cho hơn 100 người ở nhiều xã, thị trấn của huyện Tân Yên (?!). Ngoài ra còn những sai phạm khác như: Bản khai trong hồ sơ đề nghị xét hưởng chế độ trợ cấp của nhiều đối tượng thiếu xác nhận của chính quyền địa phương nơi hội viên đi TNXP, xác nhận của chi hội TNXP cơ sở; có người mới 15 tuổi đã đi TNXP như hai bà Phạm Thị Ph, Nguyễn Thị Đ ở xã Hương Sơn, đều sinh năm 1953 song khai trong hồ sơ, tháng 7-1968 đã tham gia TNXP- điều rất khó xảy ra trên thực tế (?). Một số trường hợp khác lại khai thời gian tham gia TNXP trùng với thời gian nhập ngũ hoặc tham gia ở đơn vị này nhưng ghi sang đơn vị khác…
Hồ sơ của các đối tượng có nhiều mâu thuẫn, bất hợp lý như vậy nhưng không hiểu sao vẫn được Hội đồng chính sách xã Hương Sơn, cơ quan chức năng huyện Lạng Giang xét duyệt, xác nhận và chuyển lên cấp có thẩm quyền đề nghị xét hưởng chế độ trợ cấp. Chỉ đến khi có tố cáo, các hồ sơ này mới được kiểm tra xem xét. Hiện UBND huyện Lạng Giang đã có công văn gửi Sở Nội vụ và Hội Cựu TNXP tỉnh xin rút toàn bộ 87 hồ sơ đã trình, cùng đó chỉ đạo cấp ủy, chính quyền xã Hương Sơn kiểm điểm, xử lý vi phạm. Ông Phạm Văn Trung, Chủ tịch UBND xã Hương Sơn khẳng định: "Chúng tôi đã chỉ đạo kiểm điểm tập thể và cá nhân sai phạm. Bản thân tôi cũng kiểm điểm trước tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy. Riêng đối với ông Vũ Ngọc Bổng, Hội Cựu TNXP xã Hương Sơn đã kỷ luật khai trừ ra khỏi Hội".
Trước những sai phạm tại huyện Lạng Giang, Hội Cựu TNXP huyện Tân Yên cũng kiểm tra, rà soát số hội viên liên quan đến đơn vị N79-83 do ông Vũ Ngọc Bổng làm Trưởng Ban liên lạc. Bước đầu đã xác định hàng chục hồ sơ đề nghị hưởng chế độ TNXP ở một số xã, thị trấn chưa đúng quy định. Nhiều người không đi TNXP, không thuộc đơn vị N79-83 vẫn làm hồ sơ khai ở đơn vị này và được Ban Liên lạc truyền thống, trực tiếp là ông Vũ Ngọc Bổng xác nhận. Hiện cơ quan chức năng huyện Tân Yên đã loại gần 50 người ra khỏi danh sách hội viên TNXP. Ông Phạm Quang Hùng, Chủ tịch Hội Cựu TNXP xã Việt Lập (Tân Yên) khẳng định: "Tại địa bàn xã có 24 hội viên khai nhận thuộc đơn vị N79-83, qua kiểm tra lại không đúng nên chúng tôi đã xóa tên hội viên, đề nghị không xét hồ sơ của các đối tượng này".
Được biết, ngoài số đối tượng đã bị phát hiện, trên địa bàn huyện Tân Yên vẫn còn nhiều người khai nhận ở đơn vị N79-83 đang làm hồ sơ đề nghị hưởng chế độ TNXP. Đáng chú ý, không ít đối tượng làm giả hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp chưa đúng quy định ở hai địa phương trên đã được hưởng chế độ bảo hiểm y tế đối với TNXP.
Thông tin chúng tôi nắm được, Ban liên lạc đơn vị N79-83 đã xác nhận cho 265 người ở hai huyện Tân Yên, Lạng Giang là TNXP của đơn vị này. Đa số người được xác nhận đã làm hồ sơ đề nghị và có người đã được hưởng chế độ. Theo ông Hoàng Văn Măng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Cựu TNXP huyện Lạng Giang, nguyên Đội phó phụ trách tài chính sinh hoạt của đơn vị N79-83, tham gia Đội N79-83 chủ yếu là thanh niên tỉnh Thanh Hóa, chỉ có một đại đội là thanh niên huyện Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ nay là Hà Nội), tỉnh Bắc Giang không có TNXP thuộc đơn vị N79-83. Dù không đưa ra được giấy tờ chứng minh song thông tin ông Măng cung cấp rất cần cơ quan chức năng thẩm định, làm rõ.
Không riêng ở huyện Lạng Giang, Tân Yên, tình trạng làm giả hồ sơ hưởng chế độ TNXP còn diễn ra ở nhiều địa phương trong tỉnh. Thông tin từ Hội Cựu TNXP tỉnh và Sở Nội vụ, toàn tỉnh hiện có hơn 11.700 hội viên TNXP. Trong số này đã có 4.500 trường hợp được hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 104 của Thủ tướng Chính phủ. Các đối tượng được hưởng đều có giấy tờ gốc ghi nhận là TNXP. Trong thực tế còn nhiều người tham gia TNXP không giữ được giấy tờ gốc.
Để bảo đảm quyền lợi của các đối tượng tham gia TNXP, ngày 27-7-2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 40/2011/QĐ-TTg, quy định thủ tục làm chế độ cho những người không còn giấy tờ gốc. Thực hiện Quyết định 40, Sở Nội vụ đã nhận 2.170 hồ sơ (cơ bản không có giấy tờ gốc) từ các huyện chuyển lên. Hiện Sở đã trình UBND tỉnh quyết định trợ cấp cho 1.032 đối tượng hưởng chế độ theo quy định. Trong đó có 681 người hưởng trợ cấp một lần, 16 người hưởng trợ cấp hàng tháng và 335 người là thân nhân của TNXP đã từ trần. Còn lại 1.138 hồ sơ, có 768 trường hợp đang tiếp tục được cơ quan liên quan rà soát, thẩm định; 370 trường hợp bị loại do không phải là TNXP hoặc ở đơn vị chưa được công nhận phiên hiệu.
KỲ II: KHÔNG ĐỂ ĐỐI TƯỢNG LỢI DỤNG LÀM SAI
Sở dĩ các đối tượng có thể lợi dụng làm giả hồ sơ TNXP là do quy định chính sách còn những bất cập, sự thiếu trách nhiệm, có dấu hiệu tiếp tay của một số cán bộ cơ sở. Để ngăn chặn tình trạng này cần sự giám sát, phát huy trách nhiệm của cơ quan chức năng và ban liên lạc các đơn vị TNXP.
Kẽ hở trong thực hiện chính sách
Theo Quyết định số 40/2011, ngày 27-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ: TNXP tập trung tham gia kháng chiến hoàn thành nhiệm vụ trở về địa phương được hưởng chế độ trợ cấp một lần, tính theo số năm thực tế trực tiếp tham gia. Cụ thể, từ đủ 2 năm trở xuống, mức trợ cấp một lần bằng 2,5 triệu đồng; trên 2 năm, thì từ năm thứ 3 trở đi mỗi năm được cộng thêm 800 nghìn đồng. Một số trường hợp được hưởng trợ cấp hàng tháng. Ngoài ra TNXP còn được hưởng nhiều ưu đãi khác như: Bảo hiểm y tế suốt đời, chế độ mai táng phí khi chết, vay vốn sản xuất...Trong khi đó, theo ông Nguyễn Văn Vượng, Phó Chủ tịch Hội Cựu TNXP tỉnh, việc triển khai, hướng dẫn thực hiện chính sách đối với TNXP được quy định, điều chỉnh ở nhiều quyết định, thông tư nhưng chưa chặt chẽ nên gây khó khăn cho việc áp dụng, triển khai chính sách đồng thời tạo cơ hội cho các đối tượng lợi dụng trục lợi.
Được biết, đa số hồ sơ TNXP ở các huyện gửi về Sở Nội vụ đề nghị hưởng chế độ trợ cấp theo Quyết định 40 của Thủ tướng Chính phủ không còn giấy tờ gốc do cơ quan quản lý TNXP cấp cho họ trước khi trở về địa phương. Để làm hồ sơ, các đối tượng phải làm bản khai có chứng thực của UBND cấp xã nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trước khi được huy động vào TNXP. Trong khi đó chính quyền cấp xã lại "đặt niềm tin” vào các ban liên lạc truyền thống TNXP. Hồ sơ nào có xác nhận của ban liên lạc và hội đồng chính sách xã sẽ được xem xét xác nhận. Còn các ban liên lạc lại căn cứ vào lời khai, xác nhận của hội viên. Trong khi đó, với quan điểm "tìm đồng đội" nên quy định về xét kết nạp hội viên của hội cựu TNXP các cấp lại quá đơn giản, lỏng lẻo.
Để được công nhận là hội viên, ban đầu chỉ cần cá nhân có đơn khai nhận đã tham gia TNXP là được. Sau này, có thêm điều kiện là ngoài đơn phải có hai người cùng đi TNXP xác nhận. Quy định này vẫn còn kẽ hở, bởi nếu những người này quen biết, có quan hệ họ hàng, làng xóm với nhau thì sẽ khó khách quan. Như trường hợp bà Lưu Thị M ở thôn Cầu Cần, xã Việt Lập (Tân Yên), được 3 người xác nhận tham gia TNXP đội N79-83 và đã được UBND xã ký xác nhận hồ sơ. Song, khi có thông tin tố cáo, địa phương kiểm tra phát hiện không có cơ sở xác định bà M là TNXP. Hiện bà M đã bị xóa tên khỏi danh sách Hội Cựu TNXP xã Việt Lập.
Nói tóm lại, nếu không còn giấy tờ gốc, việc xác nhận một người là hội viên TNXP là vòng tròn luẩn quẩn chỉ dựa vào "niềm tin” là chính. Đây cũng là những kẽ hở để các đối tượng lợi dụng làm trái. Gần 150 đối tượng làm hồ sơ hưởng chế độ TNXP ở xã Hương Sơn (Lạng Giang) và nhiều xã của huyện Tân Yên bị trả lại, có dấu hiệu sai phạm đều thuộc danh sách do Ban Liên lạc truyền thống đơn vị N79-83 xác nhận cung cấp. Ông Phạm Quang Hùng, Chủ tịch Hội Cựu TNXP xã Việt Lập cho biết: "Nếu chúng tôi không rà soát, kiểm tra lại, cứ tin theo danh sách đơn vị N79-83 xác nhận thì có lẽ nhiều đối tượng không phải TNXP đã hưởng chế độ trái quy định rồi”.
Để xảy ra vi phạm kể trên còn do nhiều thành viên hội đồng chính sách cấp xã tuổi đời còn trẻ, không nắm rõ quá trình hoạt động của cựu TNXP. Khi thực hiện chủ trương, chính sách đối với người có công, lãnh đạo UBND, hội đồng chính sách một số xã buông lỏng công tác kiểm tra giám sát, thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức năng nhiệm vụ, có dấu hiệu tiếp tay cho vi phạm.
Ví dụ như ở xã Hương Sơn, trong số 87 hồ sơ bị trả lại, có hơn chục trường hợp là bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ, vợ của lãnh đạo, nguyên lãnh đạo xã. Có cán bộ biết chắc người thân của mình không phải là TNXP của đơn vị N79-83 nhưng không có biện pháp can thiệp tích cực, vẫn để họ cố tình làm sai. Một